THAM LUẬN
VÀI GHI NHẬN VỀ NHÀ VĂN NAM BỘ HỒ BIỂU CHÁNH
HUY THANH
1-VÀI NÉT TIỂU SỬ NHÀ VĂN HỒ BIỂU CHÁNH:
Nhà
văn Hồ Biểu Chánh sinh ngày 01/10/1884 (1885?) tại tỉnh Gò Công miền
Nam Việt Nam. Ông tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ
Tiên. Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ thành là "Hồ Biểu Chánh".
Ông theo học chữ Nho, sau đó là chữ Quốc Ngữ và sau cùng là chữ Pháp
tại tỉnh Mỹ Tho Năm 17 tuổi ông lên Saigon học tại trường Chasseloup
Laubat, đậu bằng Thành Chung năm 1905, sau đó ông làm việc tại Saigon
và Bạc Liêu Ông xuất thân là thư ký thông ngôn, sau đó ông được thăng
dần lên chức tri huyện, rồi tri phủ, làm viêc tại huyện Càn Long, Ô
Môn, Phụng Hiệp. Năm 1936 ông thăng lên chức Đốc Phủ Sứ, sau đó một
năm ông xin về hưu Năm 1946 ông lại được mời ra làm Nghị viên hội đồng
đô thành Sàgòn và sao đó làm Đổng lý văn phòng Bộ Thông Tin (Cấp thứ
trưởng) của thủ tướng Nguyễn văn Thinh. Ông nổi tiếng là ông quan
thanh liêm, hay thương người nghèo khổ, tranh đấu cho giai cấp bần cùng
trong xã hội. Cuối năm 1946, ông từ quan về hưu sống ẩn dật, hiến
cuộc đời còn lại của mình cho sự nghiệp văn học.
Ông sáng tác
văn học rất nhiều, trên 100 tác phẩm gồm Tiểu Thuyết và các loại khác
như: nghiên cứu, phê bình văn học, tuồng hát cùng các bản dịch văn học
cổ điển Trung Quốc. Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại: Dịch thuật,
thơ, tuỳ bút phê bình, hồi ký, tuồng hát, đoản thiên, truyện vắn, biên
khảo, tiểu thuyết.v..v..
Văn phong của Hồ Biểu Chánh là viết văn
xuôi tự sự, kể truyện, tả cảnh không nghiên về phân tách tâm lý nhân
vật. Chủ Ðề ông thường chọn là cuộc sống xã hội miền Nam từ nông thôn
đến thành thị trong những năm đầu thế kỷ XX với những cuộc đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ từ văn học cho đến luân lý, đạo đức, chính trị, xã hội. Lối viết văn của ông không cầu kỳ mà mộc mạc đơn giản như tâm
hồn người dân Nam Bộ.
Ông mất ngày 04/09/1958 tại Phú Nhuận, Gia Ðịnh, thọ 74 tuổi.
Khi ông mất, Nhà thơ Ðông Hồ Lâm tấn Phát có câu đối điếu ông,,ghép tên các cuốn tiểu thuyết của ông như sau:.
“Cay
đắng mùi đời," "Con nhà nghèo ", "Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu
mươi ba thiên, "Vì nghĩa vì tình , "Ngọn cỏ gió đùa", "Tỉnh mộng",
mấy "Ai làm được?"
"Cang thường nặng gánh", cơn "Khóc thầm", cơn
"Cười gượng", thanh cần trái bảy mươi bốn tuổi, "Thiệt giả giả thiệt",
Vườn văn xưa ghé mắt", Đoạn tình" còn "Ở theo thời”.
2-TÁC PHẨM TIÊU BIỂU VĂN PHONG HỒ BIỂU CHÁNH:
Một
tác phẩm tiêu biểu cho hướng chủ đề, văn phong của nhà văn Hồ Biểu
Chánh là tiểu thuyết " Ngọn Cỏ Gió Đuà" , mô phỏng theo cuốn "Les
misérables" (Những kẻ khốn nạn) cuả văn hào Pháp Victor Hugo. Nội
dung truyện "Ngọn cỏ gió đùa" ông nói về một người dân cùng khổ tên là
Lê văn Đó, quá khổ nghèo đói nên ăn cắp một chảo cháo heo mà bị cả
chục năm tù. Từ đó, Lê văn Đó sinh ra thù ghét xã hội bất công, nhất
la bọn trọc phú, nhà giầu. Vì căm hờn xã hội, loài người nên Lê văn Đó
bất chấp đạo lý làm những chuyện bất lương. Sau đó Lê văn Đó gặp nhà sư
Chánh Tâm khuyên giải nên Lê văn Đó giác ngộ đạo Phật. Từ đó ông hết
hận đời và làm điều thiện, tránh điều dữ.
Để biết thêm về văn
phong, cách viết , kết cấu của nhà văn Hồ biểu Chánh, kính mời quý vị
và các bạn đọc bài: "Kết cấu trong tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh"
của thạc sĩ Trà thị Lam Vân sau đây
3- KẾT CẤU TRONG TÁC PHẨM CỦA NHÀ VĂN HỒ BIỂU CHÁNH:
Kết
cấu là cách sắp xếp, nối nhau các sự kiện, nhân vật, những xúc cảm trong
truyện thành một hệ thống nghệ thuật thống nhất theo ý đồ nghệ thuật
làm cho tác phẩm đạt giá trị nghệ thuật hấp dẫn người đọc. Xét kết cấu
trong các mối quan hệ chỉnh thể của tác phẩm, thường được chia thành hai
cấp độ: kết cấu trần thuật và kết cấu hình tượng.
1- Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh:
Kết
cấu trần thuật, thường được xem là bố cục, là kết cấu bề mặt, bao gồm
sự sắp xếp, phân bố các phần của nội dung vào chương, hồi, tiết, đoạn,
màn, lớp trong tác phẩm. Xét theo kết cấu bề mặt, tiểu thuyết thường
được xem xét chia bao nhiêu chương.
Với Hồ Biểu Chánh, việc quan
trọng nhất của nhà văn là việc xây dựng cái kết cấu bề mặt ấy: “Thoạt
tiên, ông sắp xếp sơ lược cốt truyện trong trí và suy nghĩ coi đoạn nào
cần phải tả dài, đoạn nào chỉ nên nói phớt qua, đặt tên, định tuổi cho
nhân vật, năm và chỗ nhân vật hành động. Sau đó, ông phân đoạn rành rẽ
lên giấy và định tính tình, tâm hồn mỗi vai”[1]
Theo Hồ Biểu
Chánh, việc xây dựng bố cục là công việc mất nhiều thời gian nhất, vì
thế ông làm việc này rất công phu, cẩn thận, tính toán từng chi tiết một
để làm sao cho tâm hồn, ngôn ngữ và cử chỉ cũng như cách cư xử của nhân
vật có thể giống với người đời. Có tác phẩm, ông phải mất vài năm mới
xong bố cục như "Ngọn cỏ gió đùa" dài đến 572 trang chẳng hạn.
Nhưng đã có bố cục, truyện hoàn thành chỉ trong vòng hai tháng.
Đặt
trong bối cảnh tình hình văn học thời ấy, sự chuẩn bị kết cấu của nhà
văn kỹ càng, các phần của nội dung, các tình tiết sắp xếp khá chặt chẽ,
liên tục, hợp lý làm cho tình tiết truyện phát triển khá tự nhiên, mạch
lạc. Đó là sự đóng góp lớn của Hồ Biểu Chánh cho nền tiểu thuyết non trẻ
của Việt Nam đầu thế kỷ XX.
A -Nhìn chung, có thể chia nghệ thuật kết cấu trần thuật của tác phẩm Hồ Biểu Chánh ra làm hai giai đoạn:
1.1 Giai đoạn kế thừa truyện Nôm:
Kết
cấu trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh giai đoạn kế thừa truyện Nôm nói
chung vẫn chia theo hai tuyến đối lập thiện và ác theo loại hình nhân
vật tư tưởng nhằm phản ánh khuynh hướng tư tưởng đề cao luân lý nhân
nghĩa mà nhà văn theo đuổi trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Vì vậy,
nhân vật của ông thường tập trung một loại phẩm chất, tính cách của một
loại người trong xã hội. Quyển tiểu thuyết bằng thơ đầu tiên mang tên
"U tình lục" hoàn toàn kết cấu theo kiểu truyện thơ Nôm của văn học
cổ điển. Truyện được viết bằng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc
và cốt truyện tài tử giai nhân quen thuộc. Đề tài và nhân vật của "U
tình lục" cũng không khác các truyện thơ của thế kỷ XIX, vẫn là trung
hiếu tiết nghĩa của Nho giáo. Nhân vật của "U tình lục" có phức tạp
hơn các truyện thơ trước đó nhưng vẫn chưa vượt khỏi quan niệm ác giả ác
báo, ở hiền gặp lành truyền thống. Kết thúc câu truyện vẫn là một kết
thúc có hậu với việc Tấn Nhơn và Cúc Hương tái hợp và nên duyên chồng
vợ, hưởng hạnh phúc lâu dài.
Sau "U tình lục", Hồ Biểu Chánh
còn viết một truyện thơ khác tên" Vậy mới phải" phỏng theo "Le cid ", một vở bi kịch nổi tiếng của văn học cổ điển Pháp thế kỷ XVII. Trong
văn chương nước ta, việc mô phỏng văn chương nước ngoài không phải là
điều lạ. Một số truyện thơ Nôm của ta đã phỏng theo những tác phẩm của
Trung Quốc như Song Tinh, Hoa Tiên, Truyện Kiều... Nhưng theo nhà nghiên
cứu Nguyễn Khuê, việc mô phỏng văn học Pháp để viết truyện thì phải đợi
đến Hồ Biểu Chánh [2]. Điều này cho thấy văn học phương Tây, mà đặc
biệt là văn học Pháp, đã bắt đầu bén rễ vào mảnh đất Việt Nam.
Thế
nhưng ta vẫn có thể tìm thấy ở truyện thơ này cái bố cục cổ điển thường
gặp: Lung (luận về sự xung đột giữa hiếu và tình) - Truyện (đính hôn -
thù hận - chia lìa) - Kết (khuyên người ta nên lấy tích xưa mà cân nhắc
phải chăng - lời khiêm nhường cuối truyện
Cùng với" U tình lục,"
" Vậy mới phải " đánh dấu một giai đoạn quá độ từ truyện Nôm cổ điển
sang tiểu thuyết hiện đại của Hồ Biểu Chánh nói riêng và của văn học
Việt Nam nói chung trong giai đoạn giao thời của văn học đầu thế kỷ.
1.2. Giai đoạn học tập kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây:
Nhưng
rồi truyện thơ không còn được chú ý như ở thời hoàng kim của nó hồi
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà làn sóng dịch tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc và tiểu thuyết Pháp với những nội dung diễm tình lãng
mạn hoặc phiêu lưu kỳ thú đã hấp dẫn lôi cuốn tầng lớp công chúng mới.
Tiểu thuyết Pháp và các tác phẩm văn xuôi quốc ngữ đầu tiên đã cuốn hút
Hồ Biểu Chánh, đặc biệt là "Hoàng Tố Anh hàm oan "của Trần Thiên
Trung (tức Trần Chánh Chiếu). Hồ Biểu Chánh đã tự thuật như sau: “Cụ
Trần Chánh Chiếu cho xuất bản "Hoàng Tố Anh hàm oan" là tiểu
thuyết đầu tiên trong lục tỉnh, truyện tinh tả nhân vật trong xứ và viết
theo điệu văn xuôi. Đọc quyển này, cảm thấy viết truyện bằng văn xuôi
dễ cảm hoá người đọc hơn, bởi vậy năm 1912 đổi xuống làm việc tại Cà Mau
mới viết thử quyển "Ai làm được "là quyển tiểu thuyết thứ nhất viết
văn xuôi tại Cà Mau với những nhân vật cũng là Cà Mau
Quan sát cuốn
tiểu thuyết văn xuôi đầu tay này của Hồ Biểu Chánh qua hai lần xuất
bản, ta thấy được bước chuyển của ông từ nghệ thuật kết cấu truyền thống
sang một kết cấu có tính chất hiện đại hơn. Qua hai lần xuất bản, tác
phẩm này vẫn mang dáng dấp của một truyện tài tử giai nhân truyền thống,
kết thúc có hậu theo kiểu “thiện ác báo đầu chung hữu báo” và “ở hiền
gặp lành” nhưng đã có những thay đổi lớn về mặt nghệ thuật kết cấu.
a-
Ở lần xuất bản đầu tiên, Hồ Biểu Chánh chia "Ai làm được" ra làm 27
hồi, mỗi hồi bắt đầu bằng một nhan đề tóm tắt những sự việc sắp xảy ra
như “Ông cháu gặp nhau”, “Phu phụ tương ly”, “Tái đáo Sài Gòn”...
b-Đến
lần xuất bản thứ hai năm 1922, sao khi được nhuận sắc, "Ai làm được" từ một cuốn truyện có 27 hồi đã được bố cục lại thành 6 chương, thay
cho những câu giới thiệu tóm tắt câu chuyện ở đầu mỗi chương là những
con số La Mã giản dị. Ông cũng loại bỏ những câu giới thiệu vụng về của
người dẫn chuyện mỗi khi câu chuyện chuyển hướng và thêm nhiều đoạn tả
cảnh, nhiều đoạn đối thoại để làm cho câu chuyện sống động, rõ ràng hơn.
Những đổi thay này đã làm cho bản Ai làm được năm 1922 gần với một tiểu
thuyết hiện đại hơn.
c-Sau "Ai làm được", toàn bộ tiểu
thuyết văn xuôi tự sự của Hồ Biểu Chánh giai doạn những năm 30 đầu thế
kỷ hầu như chỉ có quyển "Nam cực tinh huy" (1924) là tuân thủ nguyên
tắc kết cấu theo lối chương hồi. Tác phẩm gồm ba mươi bốn hồi, trước
mỗi hồi có hai câu thơ đề dẫn.
Ví dụ hồi thứ ba:
“Nước nguy biến, Đinh công rầu vong mạng
Chú đuổi xô, Bộ Lãnh quyết lập thân.”
Hồi thứ mười sáu:
“Ngô chúa băng hà, Tam ca soán nghiệp, Tử hoàng tị nạn, vương hậu xuất giá”
"Nam cực tinh huy" là một tiểu thuyết lịch sử, cho nên việc kết cấu theo lối chương hồi trong thời điểm đó là có lý do của nó.
"Một
chữ tình " (1923), "Tiền bạc bạc tiền" (1925) không phân chia
chương hồi cụ thể, không có thơ đề dẫn hoặc những tiêu đề.
Đến "Nhân tình ấm lạnh" (1925), Hồ Biểu Chánh trở lại chia theo chương hồi, nhưng tác giả phân chia theo kiểu:
Hồi thứ nhất: từ trang 3 đến 22
Hồi thứ hai: từ trang 23 đến 44
Hồi thứ ba: từ trang 45 đến 60
Hồi thứ tư: từ trang 61 đến 63
Hồi thứ năm: từ trang 84 đến 98
Hồi thứ sáu: từ trang 99 đến 116
Hồi thứ bảy: từ trang 117 đến 133
Hồi thứ tám: từ trang 134 đến 150
Hồi thứ chín: từ trang 151đến 162
Hồi thứ mười: từ trang 163 đến 180
Hồi thứ mười một: từ trang 181 đến 194
Hồi thứ mười hai: từ trang 195 đến 212
Hồi thứ mười ba: từ trang 213 đến 231
Hồi thứ mười bốn: từ trang 232 đến 252
Hồi thứ mười lăm: từ trang 253 đến 269
Hồi thứ mười sáu: từ trang 270 đến 286
Quan
sát cách chia hồi của tác giả, người đọc thấy số trang của các hồi khá
đều đặn, khoảng cách mỗi hồi khoảng từ mười mấy trang hoặc trên hai mươi
trang. Trước mỗi hồi không có thơ đề dẫn.
d- Tiểu thuyết "Chúa
tàu Kim Quy "(1922) chia hai phần, mỗi phần chia thành nhiều phần nhỏ
đánh số từ I đến IX ( phần I), từ I đến VII (phần II). Tác giả ghi phần
thứ nhất tựa là “Gió dập sóng dồi”, phần thứ nhì tiêu đề “Ơn đền oán
trả”.
e-Hai tác phẩm "Chút phận linh đinh"(1928) và "Nặng gánh
cang thường" (1953) không có hồi, chia nhiều phần và có thơ đề dẫn.
"Chút phận linh đinh"
I: Lỡ bước thương người không dám ngó
Nhớ lời cám nghĩa phải làm khuây
II: Nặng chữ tình thuyền quyên thất tiết
Nghiêm gia phong nghịch tử ly hương
III: Nghe chồng mất vợ hiền lo đáp nghĩa
Thương con thơ mẹ yếu phải hồi hương...
Nặng gánh cang thường:
VIII: Háo sắc Trần Ngang bị nhục
Dạo chơi Ngự sử được con
X: Oan ức trung thần không bán chúa
Hung hăng cường khấu phải tan xương...
Bằng
những câu thơ sáu, bảy cho đến tám chữ, chín chữ, mỗi tiêu đề giúp
người đọc nhớ nhanh, gọn diễn biến của mỗi phần trong tiểu thuyết.
f-
Năm tác phẩm không có hồi chia nhiều phần : "Thầy thông ngôn "(1925),"
Kẻ làm người chịu " (1928), "Vì nghĩa vì tình " (1929)," Cha con nghĩa
nặng "(1929)," Khóc thầm "(1929).
Ví dụ như tiểu thuyết "Khóc thầm: "
I: Khách lạ đến nhà
II:Luận đàm thế sự
III:Gả con lấy chồng
IV: Vợ chồng trái ý
V : Còn toan khai hoá
VI :Vừa lộ tánh tình
VII : Thấy rõ tâm chí
VIII : Nhà nghèo nhịn nhà giàu
IX :Nhà giàu hại nhà nghèo
X :Cha trách con
XI : Vợ phiền chồng
XII :Vĩnh Thái bị giết
XIII : Thu Hà ân hận
g-Tiểu
thuyết "Ngọn cỏ gió đùa" (1926) không chia hồi, không chia từng phần
theo những con số trên, không có thơ đề dẫn, chỉ ghi tiêu đề một cách
ngắn gọn: Đau đớn phận hèn, Nát thân bồ liễu, Nắng táp mưa sa, Đường
ngay nẻo vạy, Nghĩa nặng tình sâu, Ân tình vẹn vẽ...
Các tiêu đề cũng được chia một cách cân đối theo quan điểm mỹ học về cái đẹp cân đối hài hòa của phương Đông.
h-
Ngoài ra, một số tác phẩm không có hồi, không chia các phần, không ghi
thơ đề dẫn, không đặt tiêu đề như: "Cay đắng mùi đời"(1923), "Tỉnh
mộng"(1923), "Con nhà nghèo" (1930), "Con nhà giàu (1931).
Tuy
nhiên, những tác phẩm sáng tác giai đoạn sau những năm 30 đầu thế kỷ có
tác phẩm, tác giả chia: "Từ hôn " (1937 ) 5 chương, "Tân Phong nữ sĩ"(1937) 10 chương, "Hạnh phúc lối nào "(1957) chia từ số 1 đến số 10.
Mỗi số nhỏ này lại đặt tiêu đề:
Lần theo nẻo cũ
Nhận thấy lỗi thời
Vì thương nên phải
Hết mê trần tục
Trẻ già hội ngộ
Bên đạo bên đời
Đời đạo đi đôi
Còn nhớ gia tài
Phân giải thấp cao
Ác phụ hoàn cốt
Có
thể kết luận, trong quá trình thể nghiệm viết văn xuôi tự sự theo kiểu
tiểu thuyết hiện đại của phương Tây, Hồ Biểu Chánh vẫn chưa thoát hẳn
lối kết cấu chương hồi của tiểu thuyết truyền thống phương Đông. Có lẽ
kiểu phân chia chương hồi này giúp nhà văn thể hiện luận đề tư tưởng đạo
lý rõ ràng, khúc chiết hơn kết cấu của tiểu thuyết tâm lý hiện đại.
2. Kết cấu hình tượng trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh:
Kết
cấu hình tượng bao gồm hệ thống các nhân vật, hệ thống các chi tiết,
tình tiết, sự kiện ở ttrình tự xuất hiện và tương quan giữa chúng là kết
cấu bề sâu của tác phẩm.
Hồ Biểu Chánh thường lựa chọn kết cấu
đặt nhân vật trong một thời gian, không gian cụ thể để hành động. Trong
giai đoạn cực thịnh của trào lưu hiện thực, nhiều nhà văn đã biến đổi
linh hoạt kết cấu bên trong. Nguyễn Công Hoan thường đặt nhân vật trong
sự đối lập giữa tư cách và hành động: xuất giá tòng phu, báo hiếu trả
nghĩa cha, báo hiếu trả nghĩa mẹ. Nam Cao thường cho nhân vật triết lý
trước khi hành động: Lão Hạc, Đôi mắt... góp phần phát triển thêm chiều
sâu tâm lý của tác phẩm. Trong giai đoạn đầu của ngòi bút tả chân, Hồ
Biểu Chánh rời bỏ thời gian ước lệ của văn chương cổ điển để đến với một
thời gian thực tại.
Truyện thuộc loại hình nghệ thuật thời gian
và thời gian trong truyện là thời gian trong thời gian. Có thể hiểu
thời gian của truyện là thời gian của cái được kể và thời gian kể, thực
hiện hành động kể chuyện.
Thời gian của truyện được xem như là
sự diễn tiến của các sự kiện trong tính kế tiếp hay đồng thời, là” trật
tự niên biểu”cuả các sự kiện hình thành nên truyện. Qua đó, sự kiện được
kể diễn biến theo thời gian từ đầu đến kết thúc số phận nhân vật.
Một
số tác phẩm: "Ai làm được", "Chúa tàu Kim Quy" "Tiền bạc bạc
tiền", "Một chữ tình", "Ngọn cỏ gió đùa," "Nhân tình ấm lạnh"
"Thầy thông ngôn" ... kể theo sự liền chuỗi của các sự kiện theo kiểu
“trật tự niên biểu”. "Chút phận linh đinh " là một tác phẩm thể
nghiệm đầu tiên của Hồ Biểu Chánh khi kể không theo diễn tiến của các sự
kiện theo trình tự thời gian xảy ra lần lượt trong cuộc đời nhân vật.
Mở
đầu truyện, tác giả giới thiệu bối cảnh không gian để giới thiệu nhân
vật. Đó là một địa điểm có tên: không gian cảnh vật sinh hoạt trên đường
từ chợ xuống bến tàu Hải Phòng. Trên bến tàu, cuộc chia tay diễn ra
giữa đôi vợ chồng trẻ và con gái trong thời tiết:
“Mùa thu vừa
qua, mùa đông đã tới. Cỏ đổi xanh ra đỏ, cây rụng lá phơi nhành. Một
buổi sớm mai chủ nhật, ở Hải Phòng bầu trời mù mịt, gió phất lạnh lùng.
Mưa phùn phay pháy, cảnh thêm buồn, đường sá bẩy lầy đi lấm cẳng. Người
đi chợ tay xách giỏ, tay giấu trong vạt áo, bươn bả bước mau cho bớt
lạnh; sắp xa phu, mình mặc áo tơi, đầu đội nón lá, nghễu nghến ngoài
đường mà rước khách”.
Sang chương hai, tác giả ngược trở lại
thời gian Lê Hiển Vinh và Thu Vân yêu nhau, sinh con gái đầu. Thu Cúc
mười hai tuổi, Hiển Vinh đi Pháp du học.
Trật tự thời gian đảo
ngược là cách kết cấu mới mẻ so với kết cấu của tiểu thuyết đương thời
nhưng nghệ thuật kể chuyện của tác giả qua cách sắp xếp bố cục vẫn chưa
thoát hẳn dáng vẻ của tiểu thuyết chương hồi qua cách phân đoạn các phần
và tiêu đề ở mỗi phần.
Hồ Biểu Chánh còn lồng vào tiểu thuyết
chương hồi cách thể hiện tình cảm, nội tâm của nhân vật qua không gian
bối cảnh. Đó là môi trường hoạt động của nhân vật, một địa điểm có tên
riêng hay không có tên. trong đó có đủ cả thiên nhiên, xã hội, con
người.
Có thể phân chia không gian bối cảnh làm ba loại: bối cảnh thiên nhiên, bối cảnh xã hội và bối cảnh tâm trạng.
Bối
cảnh thiên nhiên của nhà văn thường là cánh đồng lúa chín, mặt biển
xanh lô xô hay ngọn núi phủ mờ sương, hoặc một cánh đồng lúa chín ở một
địa điểm rất cụ thể như gần Châu Thành, Bạc Liêu, chợ Tân Châu. Có lúc,
tác giả hướng dẫn cụ thể bối cảnh xã hội :”Ai đi đường Chợ Lớn xuống Gò
Công, hễ qua đò Bao Ngược rồi lên xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi...có một
xóm đông kêu là xóm Tre.” (Cay đắng mùi đời)
“Gò Công , huyện Tân Hoà” (Ngọn cỏ gió đùa)
“Dọc theo đường Cái Tắc đi Long Mỹ” (Lòng dạ đàn bà)
“Người
đi đường Bạc Liêu xuống Giá Rai, ra khỏi Châu Thành chừng mười cây
số...ở đầu xóm Cáng Dài...nhà của thím Lý Thị Phòng” (Cười gượng)
Bến Súc nằm dựa đường quản hạt số 14, là con đường chạy từ Thủ Dầu Một lên Dầu Tiếng. (Ái tình miếu)
“Xóm Đập Ông Canh nằm dựa bên Gò Công qua Mỹ Tho, ngang ngã ba tẻ vô Ụ Giữa..” (Con nhà nghèo).
Bối
cảnh thiên nhiên một mặt gắn với nhân vật và những hoạt động của nhân
vật, mặt khác gắn với tâm trạng người kể. Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh, bối cảnh thiên nhiên tác động đến tâm trạng nhân vật ít hơn bối
cảnh xã hội. Thiên nhiên trong tiểu thuyết của ông thường gắn liền với
những kỷ niệm, những sinh hoạt gia đình. Nhân vật do dòng đời xô đẩy như
Lê Thủ Nghĩa phải xa rời khung cảnh làng quê. Khi trở về, nhà cửa tiêu
điều, cỏ cây phủ lối, nhớ lại một thời êm ấm của gia đình, tâm trạng xót
xa não nề:
“Thủ Nghĩa trong lòng khoan khoái muốn đi riết về
nhà thì thấy đường đi vô nhà đều bí hết, nhà cửa cũng không có, còn cái
vườn cau thì ai đốn hết chỉ còn rơi rớt chừng năm bảy cây mà thôi. Thủ
Nghĩa xem vườn xưa cảnh cũ như vậy thì lòng như dao cắt, ruột tợ kim
châm, đau đớn thay dâu bể cuộc đời, ngao ngán nỗi thung huyên xiêu lạc.
Thủ Nghĩa chơn run lập cập, lụy ứa dầm dề, muốn bước vô mà giở bước
chẳng kham, nên ngồi bẹp tại đầu đường mà khóc”.
Tâm trạng của Chánh Tâm não nề khi đi qua không gian kỷ niệm năm xưa.
“Khách
đã tan hết, chiều lại Chánh Tâm rủ Trọng Quý đi ra ngoài ruộng hứng mát
chơi. Hai anh em thơ thẩn đi trên bờ ruộng qua Ất Ếch.
Tiết
tháng Mười, lúa nở xanh đồng, xa xa thấy có vài đám lúa sớm gần chín nên
xen màu đỏ đỏ. Chánh Tâm đi được một khúc rồi đứng lại mà hứng phong
cảnh.
Đồng ruộng minh mông, trời cao xanh lét, gió hiu hiu mát
mặt, nhái chóc chóc rân tai. Chánh Tâm nhắm cảnh một hồi rồi chảy nước
mắt mà nói với Trọng Quí rằng: ”Năm tôi mới cưới vợ, tôi dắt vợ tôi
xuống dưới này chơi. Chiều mát vợ chồng tôi dắt nhau ra đứng hứng gió
lối này, tình lai láng, nghĩa mặn nồng, vợ chồng vui vẻ không biết chừng
nào. Bây giờ tôi ra đứng đây tôi thương vợ tôi quá.”
Miêu tả
không gian ngoại giới nhằm bộc lộ tâm trạng nhân vật là một thủ pháp
nghệ thuật mà trào lưu lãng mạn sau Hồ Biểu Chánh hay dùng. Trong các
tác phẩm lãng mạn, thiên nhiên rất nên thơ: núi tím nhạt, biển mơ màng,
rừng thông vi vu, đèo cao lộng gió. Thiên nhiên trong tác phẩm Hồ Biểu
Chánh rất chân thực, cụ thể, gần gũi với bối cảnh xã hội bao gồm cuộc
sống của những tầng lớp người, mối quan hệ giữa cá nhân với nhau. Có khi
đó là những phong tục tập quán ở một địa phương miền Nam mà tác giả đã
quan sát và mô tả lại trong tác phẩm. Do đó, bối cảnh thiên nhiên, xã
hội trong tác phẩm của ông gần gũi với bối cảnh không gian của trào lưu
hiện thực trong giai đoạn phát triển cao độ của nó với những không gian
truyện ở làng Vũ Đại của Nam Cao, bến cảng của Nguyên Hồng.
Bắt
đầu từ nghệ thuật kết cấu của truyện Nôm và tiểu thuyết chương hồi, Hồ Biểu Chánh đã học tập và vận dụng nghệ thuật kết cấu của tiểu thuyết
phương Tây vào trong tác phẩm của mình và đã có những thử nghiệm khá ấn
tượng. Nhưng nhìn chung, các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh trong 30 năm đầu
thế kỷ XX vẫn có tính chất quá độ, giao thời. Tác phẩm của ông chủ yếu
vẫn là lối kết cấu song tuyến chánh - tà, thiện - ác, chính diện - phản
diện. Nhiều tác phẩm vẫn chưa thoát khỏi dấu vết của tiểu thuyết chương
hồi. Nhưng đặt trong bối cảnh tình hình văn học thời ấy, đó là một thành
công, một đóng góp lớn của Hồ Biểu Chánh vào sự phát triển của tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại.
Thạc sĩ Trà thị Lam Vân
Tài liệu tham klhảo: Bách Khoa Toàn Thư (Internet)
HUY THANH