THAM LUẬN:
TRẬN ĐÁNH TRÂN CHÂU CẢNG
VÀ TINH THẦN DŨNG CẢM
CỦA NGƯỜI NHẬT
VÀ TINH THẦN DŨNG CẢM
CỦA NGƯỜI NHẬT
HUY THANH
A -TRÂN ĐÁNH TRÂN CHÂU CẢNG, TRẬN HẢI CHIẾN KHÔNG TIỀN KHOÁNG HẬU TRONG THẾ CHIẾN THỨ HAI GIỮA MỸ VÀ NHẬT:
LƯỢC KHẢO:
Cuộc tấn công là một sự kiện lớn trong Thế chiến thứ
hai. Nó đã diễn ra trước khi có bất cứ một lời tuyên chiến chính thức
nào được đưa ra .Tòa Đại sứ Nhật Bản ở Washington đã được chỉ thị phải
chuyển giao thông điệp này ngay trước thời điểm trù định cho cuộc tấn
công ở Hawaii. Cuộc tấn công, và đặc biệt là bản chất “bất ngờ” của nó,
là hai nhân tố khiến cho công chúng Hoa Kỳ thay đổi quan điểm từ những
người theo chủ nghĩa biệt lập (Isolationism) như vào những năm
giữa thập niên 1930 sang ủng hộ việc Hoa Kỳ tham chiến. Nhật Bản đã
không đưa ra một lời tuyên chiến chính thức nào trước khi thình lình tấn
công Trân Châu Cảng, trong khi hai quốc gia Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn còn
đang trong giai đoạn đàm phán, vì thế cuộc tấn công bất ngờ này bị dư
luận quốc tế xem là đánh lén (sneak attack), và Tổng thống Franklin D.
Roosevelt HOA KỲ tuyên bố rằng ngày 7 tháng 12 năm 1941 "sẽ sống mãi trong sự khinh bỉ" ("A date which will live in infamy").
Tiếp theo Hoa Kỳ, Anh và các thuộc địa của Anh, chính
phủ Hà Lan và một loạt các quốc gia Mỹ Latinh cũng tuyên chiến với Nhật.
Về phía phe Trục, ngày 11 tháng 12, Đức Quốc xã và Ý cũng tuyên chiến với Hoa Kỳ lấy cớ là Hoa Kỳ đã phá vỡ “sự trung lập”..
A.1 -NGUYÊN NHÂN CUỘC CHIẾN:
A.1 -NGUYÊN NHÂN CUỘC CHIẾN:
Đòn tấn công được trù tính sẽ vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, nhờ đó bảo vệ cho kế hoạch xâm lược Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan của Nhật Bản, nơi người Nhật đang tìm kiếm các nguồn nguyên liệu thiên nhiên như dầu mỏ và cao su..
Vào năm 1940 dựa vào điều khoản trong Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu,
phía Hoa Kỳ đã hoãn lại mọi chuyến hàng xuất khẩu máy bay, linh kiện,
máy công cụ và xăng máy bay, điều mà phía Nhật Bản xem là một hành động
không thân thiện.
Ban tham mưu hải quân Nhật đã nghiên cứu một cách sâu sắc sự kiện Anh Quốc tấn công hạm đội Ý
tại cảng Taranto vào năm 1940. Sự kiện này đã được tận dụng triệt để
nhằm lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào căn cứ hải quân Hoa Kỳ ở Trân
Châu Cảng.
Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương,
Hoa Kỳ đã cấm xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật ,Tổng thống Franklin D.
Roosevelt trước đó đã điều Hạm đội Thái Bình Dương đến Hawaii và yêu cầu
xây dựng một lực lượng quân sự tại Philippines với hy vọng có thể làm
nản lòng Nhật Bản trong việc tiếp tục xâm chiếm miền Viễn Đông. Như giới
lãnh đạo quân sự tối cao Nhật nhận định (một cách nhầm lẫn rằng mọi
hành động chống lại các thuộc địa Anh Quốc ở Đông Nam Á sẽ thúc đẩy Hoa
Kỳ can dự vào chiến tranh, một cú tấn công phủ đầu được xem như là giải
pháp duy nhất để Nhật Bản tránh được sự can thiệp của Hải quân Hoa Kỳ.
Nhật Bản cũng cân nhắc đến việc xâm lược Philippines và cho đó là cần
thiết trong kế hoạch chiến tranh của Nhật; trong khi về phía Hoa Kỳ,
việc chiếm lại quần đảo này đã được quy định trong Kế hoạch Cam trong những năm giữa hai cuộc thế chiến.
Nhật Bản và Hoa Kỳ đều nhận thức được nguy cơ chiến
tranh (và đều xây dựng các kế hoạch chuẩn bị điều này) ngay từ những năm
1920, cho dù sự căng thẳng trong mối quan hệ chưa thực sự bắt đầu leo
thang đến tận khi Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu năm 1931. Trong thập niên
tiếp theo, Nhật Bản tiếp tục bành trướng vào Trung Quốc, dẫn đến cuộc Chiến tranh Trung Nhật vào năm 1937. Đến năm 1940, Nhật Bản tiến hành xâm chiếm Đông Dương
nhằm ngăn chặn các con đường tiếp tế đến được Trung Quốc, đồng thời
cũng là một bước đi đến việc sở hữu các nguồn tài nguyên ở Đông Nam Á.
Hành động này khiến Hoa Kỳ ra lệnh cấm xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật Bản,
buộc Nhật Bản phải khởi động kế hoạch chiếm hữu việc sản xuất xăng dầu
tại Đông Ấn. Hơn nữa, việc chuyển Hạm đội Thái Bình Dương từ căn cứ
trước đây ở San Diego đến các căn cứ mới ở Trân Châu Cảng được giới quân
sự Nhật Bản xem là Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho một cuộc đối đầu tiềm tàng
giữa hai quốc gia.
Kế hoạch sơ thảo cho một cuộc tấn công vào Trân Châu
Cảng nhằm bảo vệ cuộc tiến quân vào "Khu vực Tài nguyên phía Nam" (tên
mà phía Nhật đặt cho khu vực Đông Ấn và Đông Nam Á nói chung) được bắt
đầu ngay từ đầu năm 1941, dưới sự đỡ đầu của Đô đốc Yamamoto, lúc đó
đang là Tư lệnh của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản.. Ông giành được sự ủng hộ chính thức của Bộ Tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản
để vạch kế hoạch và huấn luyện cho cuộc tấn công sau nhiều cuộc tranh
luận căng thẳng với Bộ chỉ huy Hải quân; ông thậm chí đã đe dọa từ chức
Trong những tháng tiếp theo sau, phi công được huấn luyện, trang bị được
cải tiến và thông tin tình báo được thu thập. Cho dù có những sự chuẩn
bị như vậy, kế hoạch tấn công chỉ được Thiên hoàng Chiêu Hòa phê chuẩn
chính thức vào ngày 5 tháng 11, sau ba trong tổng số bốn cuộc họp Hội
nghị Hoàng gia để xem xét vấn đề.. Nhật Hoàng chỉ đưa ra lời
cho phép cuối cùng vào ngày 1 tháng 12, sau khi phần lớn các nhà lãnh
đạo Nhật thuyết phục với ông rằng bản "ghi chú của HuL
có thể "phá hủy thành quả của các sự kiện tại Trung Quốc, đe dọa Mãn
Châu Quốc và hạ thấp khả năng kiểm soát Triều Tiên của Nhật Bản. Đến
cuối năm 1941, các căn cứ và cơ sở quân sự Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương đã
nhiều lần bị đặt trong tình trạng báo động, và xung đột giữa Hoa Kỳ và
Nhật là điều mà nhiều quan sát viên nghĩ đến. Tuy nhiên, các quan chức
Hoa Kỳ đã hoài nghi việc Trân Châu Cảng sẽ trở thành mục tiêu đầu tiên
trong một cuộc chiến tranh với Nhật. Họ cho là Philippines sẽ bị tấn
công trước tiên do mối đe dọa mà nó đặt ra cho các con đường vận chuyển
trên biển về phía Nam, và do niềm tin sai lầm rằng Nhật không có khả
năng tung ra hai chiến dịch tấn công hải quân chủ lực cùng một lúc.
Hiện đang nổi lên một cuộc tranh luận cho rằng một số thành viên trong nội các của Roosevelt đã biết trước
về cuộc tấn công của Nhật và đã lờ đi nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía
công chúng và Quốc hội trong việc cho phép Hoa Kỳ tham chiến cùng các
đồng minh hay không.
A.2.- VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA TRÂN CHÂU CẢNG:
Quần đảo Hawaii của Hoa Kỳ ở giữa Thái Bình Dương là
một chuỗi đảo dài nối tiếp nhau theo hướng từ Tây-tây Bắc sang Đông-đông
Nam có diện tích tổng cộng gần 17.000 km² với khoảng nửa triệu người (ở
thập kỉ 40). Lớn nhất là đảo Hawaii (trên 10.000 km²) nằm ở cực trong
quần đảo, nhưng quan trọng nhất lại là đảo Oahu
với diện tích khoảng 1500 km², nằm cách Hawaii khoảng 140 dặm về phía
Tây Bắc. Trên bờ biển phía Nam đảo Oahu có thành phố Honolulu (200.000
dân), thủ phủ của cả quần đảo. Cũng trên bờ biển phía Nam đảo, cách
Honolulu về phía Tây chừng 6 dặm là Trân Châu Cảng, căn cứ chính của hạm
đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ (kể từ năm 1940). Dựng trên một vịnh biển ăn
sâu vào đất liền của đảo rồi chia thành nhiều vụng biển và luồng lạch
kín đáo lại có một cù lao ở giữa vịnh được gọi là "đảo Ford” như một cầu
tàu thiên nhiên. Trân Châu Cảng có điều kiện tự nhiên lí tưởng để bảo
vệ hạm đội chống lại mọi sự tấn công từ bên ngoài. Việc bố phòng ở cảng
hết sức cẩn mật với một hệ thống lưới thép đặc biệt chống ngư lôi và tàu
ngầm. Ngoài Trân Châu Cảng ra, hạm đội còn một căn cứ khác là cảng
Lahaina trên đảo Maui, một đảo nằm ở khoảng giữa Oahu và Hawaii.
Nằm ở tọa độ 21°20′38″ Bắc, 157°58′30″ Tây trên đảo
Oahu, hòn đảo lớn thứ ba của nhóm đảo phía Tây quần đảo Hawaii, Trân
Châu Cảng có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ vùng
Bắc Thái Bình Duơng. Với khoảng cách tương ứng với một tầm bay tối đa
của các "pháo đài bay" B-17 từ Oahu đến bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Trân
Châu Cảng có thể trở thành căn cứ triển khai các hoạt động của không
quân oanh tạc ở Tây Thái Bình Dương. Vai trò vị trí của Trân Châu Cảng
đối với hải quân còn quan trọng hơn. Do vị trí gần như ở giữa vùng Bắc
Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng vừa là căn cứ chỉ huy, căn cứ hậu cần,
là cơ sở bảo duỡng, sửa chữa các chiến hạm của hạm đội Thái Bình Dương.
Từ căn cứ này, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có thể tung
sức mạnh của họ khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương bằng các lực
lượng tàu nổi, tàu ngầm và không quân của Hạm đội. Nếu như đối với Hoa
Kỳ, Trân Châu Cảng và Midway là hai bàn đạp quan trọng nối tiếp nhau để
vươn sang lục địa Châu Á thì đối với Nhật Bản, Trân Châu Cảng là bàn đạp
để tiến đến Hoa Kỳ và toàn bộ lục địa Bắc Mỹ. Tuy nhiên, vào những năm
1941-1942, lục quân và hải quân Nhật Bản không có tham vọng đánh chiếm
hoàn toàn quần đảo này như họ đã làm với quần đảo Midway. Với trận tấn
công Trân Trâu Cảng, Nhật Bản chỉ đủ sức làm tê liệt Hạm đội Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian vừa đủ để họ có thể rảnh tay
đánh chiếm toàn bộ vùng bờ biển và các quần đảo Tây Thái Bình Duơng, uy
hiếp Ấn Độ và Australia, đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ khỏi Châu Á, chia
đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ trong một thế cân bằng chiến lược mới ở
đại dương rộng nhất thế giới này, tiến tới hiện thực hóa học thuyết "Đại
Đông Á".
A.3- MỤC TIÊU CUỘC CHIẾN :Cuộc tấn công có nhiều mục đích chính. Trước tiên, người Nhật hi vọng nó sẽ tiêu diệt các đơn vị của hạm đội Hoa Kỳ, và do đó ngăn cản hạm đội Thái Bình Dương can thiệp vào việc Nhật chinh phục Đông Ấn. Kế tiếp, đó là cách người Nhật tranh thủ thời gian để củng cố vị thế của họ và tăng cường sức mạnh hải quân, trước khi các tàu chiến mới của Hoa Kỳ được chế tạo theo Đạo luật Vinson-Walsh sẽ xóa tan mọi cơ hội chiến thắng. Cuối cùng, nó được trù tính sẽ là một đòn mạnh giáng vào tinh thần của người Mỹ, có thể gây nản lòng, cho phép Nhật tiếp tục chinh phục Đông Nam Á mà không bị can thiệp
Đặt mục tiêu chính vào những chiếc thiết giáp hạm là
một cách đánh vào tinh thần, vì chúng là niềm tự hào của mọi lực lượng
hải quân vào thời điểm đó. Vì các ý tưởng chiến lược và văn kiện quân sự
của cả hai phía Nhật Bản và Hoa Kỳ đều xuất phát từ công trình của
Thuyền trưởng Alfred Mahan, vốn cho rằng
những chiếc thiết giáp hạm có vai trò quyết định trong các trận hải
chiến. Nó cũng là cách đánh vào sức mạnh tác chiến của Hạm đội Thái Bình
Dương; và nếu như thành công, điều đó sẽ trì hoãn, nếu không thể ngăn
ngừa vĩnh viễn, trận chiến Thái Bình Dương tổng lực ("trận đánh quyết
định", theo suy nghĩ của Hải quân Nhật), một cuộc chiến chắc chắn là
cuộc đối đầu giữa các thiết giáp hạm. Với những suy nghĩ ấy, Yamamoto dự
định phải tìm kiếm và tấn công Hạm đội Thái Bình Dương "bất cứ nơi nào
có thể tìm gặp tại Thái Bình Dương.. Ngày 14 tháng 11 năm 1941, cuộc
diễn tập trên sa đồ đã đưa ra giả định lực lượng phòng thủ khi được báo
động sẽ có thể đánh chìm hai tàu sân bay của Nhật và làm hư hại thêm hai
chiếc nữa, ngay cả khi có thời tiết thuận lợi; đó là tất cả sức mạnh mà
Bộ Tổng tham mưu Hải quân Nhật dự định tung ra cho chiến dịch này. Dù
sao, Yamamoto vẫn ra lệnh tiếp tục tiến hành. Phía Nhật Bản đã quá tin
tưởng vào khả năng đạt được thắng lợi nhanh chóng trong Thế Chiến Thứ
Hai, và do đó đã bỏ qua các mục tiêu khác trong cảng, đặc biệt là các
xưởng tàu hải quân, kho chứa dầu và căn cứ tàu ngầm, vì tin rằng chiến
tranh sẽ kết thúc trước khi các cơ sở đó có thể phát huy tác dụng
A.4 - LỰC LƯỢNG VÀ CHIẾN THUẬT CỦA HẢI QUÂN NHẬT :
Không lực Hải quân của các tàu sân bay Nhật Bản tham
gia vào các cuộc tấn công Trân Châu Cảng sử dụng ba loại máy bay chủ
yếu, thường được biết đến với tên mã cho chúng trong Hải quân Hoa Kỳ:
máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M Kiểu 11 ("Zero"), máy bay phóng ngư lôi
Nakajima B5N Kiểu 97 ("Kate") và máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A Kiểu
99 ("Val"). Đặc điểm của các phương tiện này như sau:
- Máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M kiểu 11 ("Zero") do một phi công điều khiển; tốc độ tối đa 545 km/giờ; tầm hoạt động tối đa 1.870 km; được trang bị một súng máy 20 mm và hai bom 60 kg dưới cánh. Tổng số lần xuất kích trong trận đánh: 10 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 78 chiếc.
- Máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A kiểu 99 ("Val") do hai phi công điều khiển; tốc độ tối đa 450 km/giờ; tầm hoạt động tối đa 1.400 km; đuợc trang bị một bom 250 kg dưới thân và hai bom 60 kg dưới cánh. Tổng số lần xuất kích trong trận đánh: 6 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 129 chiếc.
- Máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N kiểu 97 ("Kate") do hai đến ba phi công điều khiển; tốc độ tối đa 360 km/giờ; tầm hoạt động tối đa 1.100 km; được trang bị một ngư lôi MK-91 457 mm hoặc một quả bom 800 kg dưới thân. Tổng số lần xuất kích trong trận đánh: 11 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 143 chiếc, trong đó có 49 chiếc mang bom 800 kg và 94 chiếc mang ngư lôi MK-91.
Các tàu sân bay được hộ tống bởi một hạm đội tàu nổi mạnh gồm các thiết giáp hạm nhanh Hiei và Kirishima, tàu tuần dương hạng nặng Chikuma, 9 tàu khu trục. Soái hạm của hạm đội Nhật Bản là chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Nagara
Phân hạm đội liên hợp số 1 của đế quốc Nhật Bản chịu
trách nhiệm tấn công Trân Châu Cảng do đô đốc Nagumo Chūichi chỉ huy, có
2 tàu sân bay Akagi và Kaga với sự phân công nhiệm vụ như sau:
- Tàu sân bay Akagi do hạm
trưởng Kiichi Hasegawa chỉ huy, chỉ huy không quân Masuda Shogo; được
giao nhiệm vụ tấn công các thiết giáp hạm USS Maryland (BB-46), USS
Tennessee (BB-43), USS West Virginia (BB-48), USS Oklahoma (BB-37) và
USS California (BB-44); tàu chở dầu USS Neosho (AO-23, căn cứ không quân Hickam, căn cứ thủy phi cơ Ford, khu vực Eva. Trong biên chế có:
- Liên đội hỗn hợp phóng lôi - ném bom có 15 chiếc Nakajima B5N do thiếu tá Fuchida Mitsuo chỉ huy, gồm phi đội 1 của thiếu tá Fuchida, phi đội 2 của trung úy Goro Iwasaki và phi đội 3 của trung úy Izumi Furukawa.
- Liên đội phóng lôi có 15 chiếc Nakajima B5N do trung tá Murata Shigeharu chỉ huy, gồm các phi đội 1 và 2 do trung tá Shigeharu chỉ huy, phi đội 3 và 4 do trung úy Asao Negishi chỉ huy.
- Phi đoàn ném bom có 18 chiếc Aichi D3A do trung úy Takehiko Chihaya chỉ huy gồm các phi đội 21, 22, 23 do trung úy Takehiko Chihaya chỉ huy, các phi đội 25, 26, 27 do trung úy Zenji Abe chỉ huy.
- Liên đội tiêm kích đánh chặn có 18 chiếc A6M Zero do trung tá Shigeru Itaya chỉ huy, gồm phi đội 1 của trung tá Itaya, phi đội 2 của trung úy Saburo Shindo. Liên đội này còn có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
- Tàu sân bay Kaga do hạm
trưởng Okada Jisaku chỉ huy, không quân do thiếu tá Sata Naohito chỉ
huy; được giao nhiệm vụ tấn công các thiết giáp hạm USS Arizona (BB-39),
USS Tennessee (BB-43), USS West Virginia (BB-48), USS Oklahoma (BB-37),
USS Nevada (BB-36), căn cứ không quân Hickam và căn cứ thủy phi cơ
Ford. Trong biên chế có:
- Liên đội hỗn hợp phóng lôi - ném bom có 15 chiếc Nakajima B5N do trung tá Kakuichi Hashiguchi chỉ huy, gồm phi đội 1 của trung tá Kakuichi Hashiguchi, phi đội 2 của trung úy Hideo Maki, phi đội 3 của trung uý Yoshitaka Mikami.
- Liên đội phóng lôi có 12 chiếc Nakajima B5N do trung tá Kazuyoshi Kitajima chỉ huy, gồm các phi đội 1 và 2 của trung tá Kazuyoshi Kitajima chỉ huy, các phi đội 3 và 4 của trung úy Mimori Suzuki.
- Liên đội ném bom có 27 chiếc Aichi D3A do trung úy Saburo Makino chỉ huy, gồm các phi đội 21, 22, 23 do đích thân Makino chỉ huy, các phi đội 24, 25, 26 do trung úy Shoichi Ogawa chỉ huy, các phi đội 27, 28, 29 do trung úy Shoichi Ibuki chỉ huy.
- Liên đội tiêm kích đánh chặn có 18 chiếc A6M Zero do trung úy Yoshio Shiga chỉ huy, gồm phi đội 1 do đích thân trung úy Yoshio Shiga chỉ huy, phi đội 2 do trung úy Yaushi Nikaido chỉ huy. Liên đội này có có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
Phân
hạm đội liên hợp số 2 của đế quốc Nhật Bản chịu trách nhiệm tấn công
Trân Châu Cảng do phó đô đốc Yamaguchi Tamon chỉ huy, có 2 tàu sân bay Sōryū và Hiryū với sự phân công nhiệm vụ như sau:
- Tàu sân bay Sōryū do hạm
trưởng Yanagimoto Ryusaku chỉ huy; không quân do thiếu tá Kusumoto Ikuto
chỉ huy được giao nhiệm vụ tấn công các chiến hạm USS Nevada (BB-36),
USS Tennessee (BB-43), USS West Virginia (BB-48), USS Utah (BB-31), USS
Helena (CL-50), USS California (BB-44) và USS Raleigh (CL-7); sân bay
Wheeler và cơ sở sửa chữa máy bay tại Barbers. Trong biên chế có:
- Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 10 chiếc Nakajima B5N do trung úy Heijiro Abe chỉ huy, gồm phi đội 1 do trong úy Abe chỉ huy và phi đội 2 do trung úy Sadao Yamamoto chỉ huy.
- Liên đội phóng lôi có 8 chiếc Nakajima B5N do trung úy Tsuyoshi Nagai chỉ huy, gồm phi đội 1 và phi đội 2 do trung úy Nagai chỉ huy, phi đội 3 và phi dội 4 do trung úy Tatsumi Nakajima chỉ huy.
- Liên đội ném bom có 18 chiếc Aichi D3A do thiếu tá Egusa Takeshige chỉ huy, gồm các phi đội phi đội 21, 22, 23 của thiếu tá Egusa Takeshige và các phi đội 24, 25, 26 của trung úy Masatake Ikeda.
- Liên đội tiêm kích đánh chặn có 18 chiếc A6M Zero do trung úy Masaji Suganami chỉ huy gồm phi đội 1 của trung úy Masaji Suganami và phi đội 2 của trung úy Fusata Iida. Liên đội này có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
- Tàu sân bay Hiryū do hạm
trưởng Kaku Tomeo chỉ huy, Amagai Takahisa chỉ huy không quân, đuợc giao
nhiệm vụ tấn công các chiến hạm USS Arizona (BB-39), USS California
(BB-44), USS West Virginia (BB-48), USS Oklahoma (BB-37) và USS Helena
(CL-50); các công trình ngầm và cơ sở sửa chữa máy bay tại Barbers.
Trong biên chế có:
- Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 10 chiếc Nakajima B5N do trung tá Tadashi Kosumi chỉ huy gồm phi đội 1 của trung tá Kosumi và phi đội 2 của trung úy Toshio Hashimoto.
- Liên đội phóng lôi có 8 chiếc Nakajima B5N do trung úy Heita Matsumura gồm các phi đội 1 và 2 của trung úy Heita Matsumura, các phi đội 3 và 4 của trung úy Hiroharu Sumino.
- Liên đội ném bom có 10 chiếc Aichi D3A do trung tá Michio Kobayashi chỉ huy gồm các phi đội 21, 22, 23 của trung tá Michio Kobayashi, các phi đội 24, 25, 26 của trung úy Shun Nakagawa.
- Liên đội tiêm kích đánh chặn có 15 chiếc A6M Zero do trung úy Kiyokima Okajima gồm phi đội 1 của trung úy Kiyokima Okajima và phi đội 2 của trung úy Sumio Nono. Liên đội này có 9 chiếc A6M Zero dự trữ.
- Tàu sân bay Shōkaku do hạm
trưởng Jojima Takatsugu chỉ huy, Wada Tetsujiro chỉ huy không quân đuợc
giao nhiệm vụ tấn công căn cứ không quân Hickam, sân bay Kane'ohe và các
trận địa cao xạ. Trong biên chế có:
- Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 27 chiếc Nakajima B5N do trung úy Tatsuo Ichihara chỉ huy gồm phi đội 1 của trung úy Tatsuo Ichihara, phi đội 2 của trung úy Tsutomu Hagiwara và phi đội 3 của trung úy Yoshiaki Ikuin
- Liên đội ném bom do có 27 chiếc Aichi D3A do trung tá Takahashi Kakuichi chỉ huy gồm phi đội 1 của trung tá Takahashi Kakuichi, phi đội 2 của trung úy Masao Yamaguchi và phi đội 3 của trung úy Hisayoshi Fujita.
- Liên đội tiêm kích đánh chặn có 5 chiếc A6M Zero do trung úy Tadashi Kaneko chỉ huy, liên đội này có 9 chiếc A6M Zero trong lực luợng dự trữ.
- Tàu sân bay Zuikaku do hạm
trưởng Yokokawa Ichibei chỉ huy, Shimoda Hisao chỉ huy không quân, được
giao nhiệm vụ tấn công căn cứ không quân Hickam, sân bay Kane'ohe và các
trận địa cao xạ. Trong biên chế có:
- Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 27 chiếc Nakajima B5N do trung tá Shigekazu Shimazaki chỉ huy gồm phi đội 1 của Shigekazu Shimazaki, phi đội 2 của trung úy Takemi Iwami và phi đội 3 của trung úy Yoshiaki Tsubota.
- Liên đội ném bom có 27 chiếc Aichi D3A do trung tá Sakamoto Akira chỉ huy gồm phi đội 1 của Sakamoto Akira, phi đội 2 của trung úy Tomatsu Ema và phi đội 3 của trung úy Hayashi.
- Liên đội tiêm kích đánh chặn có 6 chiếc A6M Zero do trung úy Masao Sato chỉ huy và 9 chiếc trong lực lượng dự trữ.
Phân hạm đội thiết giáp hạm số 3 do phó đô đốc Gunichi Mikawa chỉ huy gồm hai thiết giáp hạm Hiei và Kirishima
Phân hạm đội tuần dương số 8 do đô đốc Hiroaki Abe chỉ huy gồm các tuần dương hạm Tone và Chikuma.Phân hạm đội khu trục số 1 do phó đô đốc Sentarō Ōmori chỉ huy chỉ có khu trục hạm Abukuma thuộc lớp Nagara.
Phân hạm đội khu trục số 17' gồm các tàu khu trục Urakaze, Isokaze, Tanikaze và Hamakaze đều thuộc lớp Kagerō.
Phân hạm đội khu trục số 18' gồm các tàu khu trục Kagerō và Shiranuhi thuộc lớp Kagerō, các tàu khu trục Arare và Kasumi thuộc lớp Asashio
Đơn vị khu trục Midway do hạm trưởng Ohishi Kaname gồm các tàu khu trục Akebono (1930) và Ushio (1930) đều thuộc lớp Fubuki.
Phân hạm đội tàu ngầm số 2 do hạm trưởng Imaizumi Kijiro chỉ huy gồm tàu ngầm I-10 thuộc lớp Kiểu A, các tàu ngầm I-21 và I-23 thuộc phân lớp I-15, Kiểu B1.
Đoàn tàu vận tải số 1 gồm tàu chở dầu Kyokuto Maru, các tàu vận tải Kenyo Maru, Kokuyo Maru, Shinkiku Maru và Akebono Maru.
Đoàn tàu vận tải số 2 gồm tàu chở dầu Tōhō Maru, các tàu vận tải Toei Maru và Nippon Maru.Hạm đội tàu ngầm số 6 do phó đô đốc Shimizu Mitsumi chỉ huy trong biên chế có:
- Phân hạm đội tàu ngầm số 1 do phó đô đốc Sato Tsutomu chỉ huy gồm tàu ngầm I-9 thuộc lớp I-9, kiểu A1, các tàu ngầm I-15, I-17 và I-25 đều thuộc lớp I-15 kiểu B1.
- Phân hạm đội tàu ngầm số 2 do phó đô đốc Yamazaki Shigeaki chỉ huy gồm tàu ngầm I-7 thuộc lớp I-7, kiểu J3, các tàu ngầm I-1, I-2, I-3, I-4 đều thuộc lớp I-1, kiểu J1, tàu ngầm I-5 thuộc lớp I-5, kiểu J1M và tàu ngầm I-6 thuộc lớp I-6, kiểu J2.
- Phân hạm đội tàu ngầm số 3 do đô đốc Shigeyoshi Miwa chỉ huy gồm các tàu ngầm I-8 lớp I-7 kiểu J3, I-68, I-69, I-70, I-71, I-72, I-73 đều thuộc lớp I-68 kiểu KD6A, các tàu ngầm I-74 và I-75 thuộc lớp I-74 kiểu KD6B.
- Phân hạm công kích đặc biệt do hạm truởng Sasaki Hanku chỉ huy tàu ngầm "mẹ" gồm các tàu ngầm "bỏ túi" I-22 và I-22A do thuyền trưởng Naoji Iwasa chỉ huy, I-16 do thuyền truởng Hiroshi Hanabusa chỉ huy, I-16A, I-18, I-18A, I-20, I-20A, I-21 và I-21A.
- Đơn vị tàu ngầm trinh sát do hạm trưởng Kashihara Yasuchika chỉ huy gồm các tàu ngầm I-10 và I-26 do Minoru Yokota chỉ huy.
A.5 - LỰC LƯỢNG CỦA HẢI QUÂN HOA KỲ TẠI TRÂN CHÂU CÃNG :
Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ thực sự là hạm đội mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ với khoảng 170 hạm tàu các loại
- Tư lệnh hải quân Hoa Kỳ, Đô đốc Harold Rainsford Stark.
- Chỉ huy hạm đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, Đô đốc Husband Edward Kimmel.
- Lực luợng đặc nhiệm số 1 do Phó Đô đốc William Satterlee Pye chỉ huy, trong biên chế có:
- Hạm đội thiết giáp do Chuẩn Đô đốc Walter Stratton Anderson chỉ huy, gồm các đơn vị:
- Hải đoàn 1 do Chuẩn Đô đốc Issac C. Kidd chỉ huy gồm các chiến hạm USS Nevada (BB-36) của hạm trưởng Francis W. Scanland, USS Pennsylvania (BB-38) của hạm truởng Charles M. "Saavy" Cooke, Jr. và USS Arizona (BB-39) của hạm trưởng Franklin Van Valkenburgh
- Hải đoàn 2 gồm các chiến hạm USS Oklahoma (BB-37) của hạm truởng Howard D. "Ping" Bode, USS Tennessee (BB-43) và USS California (BB-44) của hạm truởng Joel W. Bunkley.
- Hải đoàn 4 do Chuẩn Đô đốc Walter S. Anderson chỉ huy gồm các chiến hạm USS Maryland (BB-46) của hạm trưởng D. C. Godwin và USS West Virginia (BB-48) của hạm truởng Mervyn Sharp Bennion.
- Hạm đội tuần dương do Chuẩn Đô đốc H. Fairfax Leary chỉ huy, gồm các đơn vị:
- Hải đoàn tuần dương số 6 gồm các tàu tuần dương USS New Orleans (CA-32) và USS San Francisco (CA-38)
- Hải đoàn tuần dương số 9 do đích thân Chuẩn Đô đốc H. Fairfax Leary chỉ huy gồm các tuần dương hạm USS Phoenix (CL-46), USS Honolulu (CL-48), USS Helena (CL-50) và USS St. Louis (CL-49) của hạm trưởng George A. Rood
- Hạm đội khu trục do Chuẩn Đô đốc Milo F. Draemel chỉ huy gồm các đơn vị:
- Phân hạm đội khu trục 1 gồm các tàu khu trục USS Raleigh (CL-7) và USS Phelps (DD-360).
- Hải đoàn khu trục số 1 gồm các tàu khu trục USS Dewey (DD-349), USS Hull (DD-350), USS Macdonough (DD-351) và USS Worden (DD-352)
- Hải đoàn khu trục số 2 gồm các tàu khu trục USS Farragut (DD-348), USS Dale (DD-353), USS Monaghan (DD-354) và USS Aylwin (DD-355)
- Tiểu hạm đội 3 chỉ có tàu khu trục USS Selfridge (DD-357)
- Hải đoàn khu trục số 5 gồm các tàu khu trục USS Reid (DD-369), USS Conyngham (DD-371), USS Cassin (DD-372) và USS Downes (DD-375).
- Hải đoàn khu trục số 6 gồm các tàu khu trục USS Cummings (DD-365), USS Case (DD-370), USS Shaw (DD-373) và USS Tucker (DD-374).
- Phân hạm hạm đội khu trục 2 gồm các tàu USS Detroit (CL-8), USS Bagley (DD-386), USS Blue (DD-387), USS Helm (DD-388), USS Mugford (DD-389), USS Ralph Talbot (DD-390), USS Henley (DD-391), USS Patterson (DD-392), USS Jarvis (DD-393)
- Các tàu khu trục độc lập USS Allen (DD-66), USS Schley (DD-103), USS Chew (DD-106), USS Ward (DD-139)
- Các tàu ngầm USS Narwhal (SS-167), USS Dolphin (SS-169), USS Cachalot (SS-170), USS Tautog (SS-199).
- Tàu rải mìn USS Oglala (CM-4).
- Các tàu quét mìn USS Turkey (AM-13), USS Bobolink (AM-20), USS Rail (AM-26), USS Tern (AM-31), USS Grebe (AM-43), USS Vireo (AM-52).
- Các tàu quét mìn ven bờ USS Cockatoo (AMc-8), USS Crossbill (AMc-9), USS Condor (AMc-14), USS Reedbird (AMc-30).
- Các tàu khu trục rải mìn USS Gamble (DM-15), USS Ramsay (DM-16), USS Montgomery (DM-17), USS Breese (DM-18), USS Tracy (DM-19), USS Preble (DM-20), USS Sicard (DM-21), USS Pruitt (DM-22).
- Các tàu khu trục quét mìn USS Zane (DMS-14), USS Wasmuth (DMS-15), USS Trever (DMS-16), USS Perry (DMS-17
- Pháo hạm tuần tra USS Sacramento (PG-19)
- Các tàu khu trục hạng nhẹ USS Dobbin (AD-3) và USS Whitney (AD-4)
- Các tàu chở thủy phi cơ USS Curtiss (AV-4) và USS Tangier (AV-8)
- Các tàu chở thủy phi cơ loại nhỏ USS Avocet (AVP-4) và USS Swan (AVP-7)
- Các tàu chở thủy phi cơ được cải biến từ tàu khu trục USS Hulbert (AVD-6) và USS Thornton (AVD-11).
- Tàu chở đạn USS Pyro (AE-1)
- Các tàu chở dầu USS Ramapo (AO-12) và USS Neosho (AO-23)
- Các tàu công xưởng USS Medusa (AR-1), USS Vestal (AR-4) và USS Rigel (AR-11).
- Tàu ngầm loại nhẹ USS Pelias (AS-14)
- Tàu ngầm cứu hộ USS Widgeon (ASR-1)
- Tàu bệnh viện USS Solace (AH-5)
- Tàu chở hàng USS Vega (AK-17)
- Các tàu cung cấp USS Castor (AKS-1) và USS Antares (AKS-3)
- Các tàu kéo USS Ontario (AT-13), USS Sunnadin (AT-28), USS Keosanqua (AT-38) và USS Navajo (AT-64).
- Các tàu hỗ trợ USS Utah (AG-16), USS Argonne (AG-31), USS Sumner (AG-32) và USS Baltimore (CM-1).
- Hạm đội thiết giáp do Chuẩn Đô đốc Walter Stratton Anderson chỉ huy, gồm các đơn vị:
Bảo
vệ hạm đội và toàn bộ quần đảo, có một lực lượng lục quân gồm 43.000
binh lính và sĩ quan, trong đó 35.000 đóng tại Oahu. Lực lượng này được
trang bị các vũ khí rất hiện đại.[ Trên đảo Oahu có 5 sân
bay, quan trọng nhất là sân bay Hickam ở ngay gần Trân Châu Cảng và sân
bay Wheeler ở phía Bắc đảo. Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, trên đảo có
tất cả 233 máy bay quân sự của Lục quân, trong đó 150 chiến đấu cơ, 35
pháo đài bay hiện đại B17, còn lại là các máy bay ném bom khác. Với lực
lượng nói trên, tướng Walter Short, tư lệnh Lục quân tại đảo Hawaii (từ
tháng 2 năm 1941) vẫn cho rằng ông thiếu phương tiện phòng thủ, đặc biệt
là những vũ khí để giáng trả những cuộc tấn công bằng không quân của kẻ
địch. Có 81 chiếc thủy phi cơ Catalina và bổ sung thêm 6 chiếc B17 làm
nhiệm vụ trinh sát cho toàn quần đảo, đô đốc Kimmel cũng tho rằng ông
không đủ khả năng thường xuyên thám sát từ xa toàn bộ vùng biển xung
quanh quần đảo. Bởi thế, ông chỉ chú trọng tuần tra vùng biển phía Nam,
nơi gần quần đảo Marshall của Nhật.
Đã nhiều lần, Short đề nghị bổ sung những phương tiện
còn thiếu, nhưng các thượng cấp không tán thành, vì họ không cùng quan
điểm với ông.
B - HÌNH ẢNH , CHIẾN THUẬT CỦA TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH :
Ngày 26 tháng 11 năm 1941, một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản (Kido Butai,
hay là Lực lượng Tấn công) gồm sáu tàu sân bay hạm đội cùng một số tàu
hộ tống và tàu chở dầu tiếp nhiên liệu, dưới quyền chỉ huy của Phó Đô
đốc Chuichi Nagumo đã lên đường rời miền Bắc Nhật Bản đi đến một địa
điểm ở phía Tây Bắc Hawaii, dự định sẽ tung số máy bay trên đó, 405
chiếc, để tấn công vào Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công dự định được chia
làm hai đợt với 360 chiếc dành cho hai đợt tấn công, và 48 máy bay làm
nhiệm vụ phòng thủ tuần tra chiến đấu trên không (CAP), kể cả chín chiếc của đợt thứ nhất quay về.
Đợt thứ nhất sẽ là đòn tấn công chủ lực, trong khi
đợt thứ hai sẽ hoàn tất những công việc còn sót lại. Đợt thứ nhất mang
theo phần lớn vũ khí, chủ yếu là ngư lôi, để tấn công các tàu chủ lực. Các phi công được lệnh phải chọn những mục tiêu có giá trị cao nhất có mặt tại Trân Châu Cảng để tấn công. Máy bay ném bom bổ nhào
dùng để tấn công các mục tiêu trên mặt đất. Trong khi đó, Máy bay tiêm
kích được yêu cầu phải bắn phá các sân bay và tiêu diệt số máy bay đậu
trên mặt đất càng nhiều càng tốt nhằm đảm bảo chúng không thể cất cánh
để phản công lại các máy bay ném bom, đặc biệt là trong đợt đầu tiên.
Khi những máy bay tiêm kích bị cạn nhiên liệu, chúng sẽ được tiếp thêm
nhiên liệu từ các tàu sân bay rồi quay trở lại chiến đấu. Những máy bay
tiêm kích sẽ làm nhiệm vụ tuần tra chiến đấu trên không ở nơi cần thiết,
đặc biệt là bên trên các sân bay Hoa Kỳ.
Để bảo đảm bí mật, đoàn tàu được lệnh đánh chìm mọi
tầu bè của các nước trung lập mà nó gặp. Nếu gặp tàu Mỹ trước ngày 6
tháng 12 thì hủy bỏ cuộc hành quân quay trở về; trong ngày 6 thì tùy
theo tình hình mà có quyết định thích hợp; còn trong ngày 7 thì tấn công
tiêu diệt trong bất cứ tình huống nào. May mắn thay, đúng như kế hoạch
đã dự tính, trong suốt cuộc hành hình hơn 10 ngày, "Kido Butai" không
gặp một tàu bè nào khác trên đường đi. Trong khi đó, mỗi ngày nó đều
nhận được những tin tức tình báo về tình hình Trân Châu Cảng và những
chỉ thị cần thiết của Tư lệnh chiến dịch do đô đốc Isoroku Yamamoto phát
đi từ hạm đội Liên hợp đang thả neo trong vịnh Hashirajima
thuộc biển Nội Hải (Nhật Bản). Những tin tình báo ấy do tòa Tổng lãnh
sự Nhật ở Honolulu điện về cho đô dốc Yamamoto theo những giờ quy định.
Sáng 6 tháng 12, khi đoàn tàu còn cách đảo Oahu
600 dặm về phía Bắc-tây Bắc, phó đô đốc Nagumo đã được đô đốc Yamamoto
thông báo về chỉ thị của Thiên hoàng quyết định tiến hành chiến tranh
với Hoa Kỳ. Đoàn tàu được tiếp nhiên liệu lần cuối cùng, các tàu chở dầu
quay trở lại còn "Kido Butai" chuyển sang hướng Nam-Đông Nam, tăng tốc
độ để tiến đến mục tiêu. Buổi trưa, đô đốc Yamamoto lại thông báo cho
Nagumo rằng tại Trân Châu Cảng không có tàu sân bay Mĩ. Tin ấy làm cho
trung tá Minoru Genda và một số nhân vật
quan trọng khác của "Kido Butai" có phần thất vọng, nhưng nó không được
Nagumo quan tâm vì ông vẫn luôn cho rằng các thiết giáp hạm mới là lực
lượng chủ yếu của hải quân. Trước khi cuộc tấn công được thực hiện, hai
máy bay trinh sát được phóng lên từ các tàu tuần dương để thám sát bên
trên Oahu và báo cáo về thành phần và vị trí của hạm đội đối phương. Bốn
chiếc máy bay thám sát khác sẽ tuần tra trong khu vực giữa Kido Butai
và Niihau nhằm ngăn ngừa lực lượng đặc nhiệm khỏi bị phản công bất ngờ.
Theo kế hoạch máy bay của hạm đội sẽ tiến công Trân Châu Cảng trước lúc
rạng đông nhưng nhiều phi công đã than phiền về nguy cơ có thể gặp khi
họ phải cất cánh lúc đêm tối. Bởi thế Genda cùng Bộ chỉ huy hạm đội đã
quyết định lùi thời hạn xuất phát lại hai tiếng đồng hồ vào thời điểm mà
họ cho là rất thuận lợi vì người Mỹ hết sức lơ là mất cảnh giác
Trong khi đó, về phía Hoa Kỳ, ngày 26 tháng 11, vài giờ sau khi Lực lượng đặc nhiệm Z của Nhật rời khỏi vịnh Hitokapu, trung tá Wilfred Holmes,
người chịu trách nhiệm theo dõi hoạt động của các chiến hạm Nhật đã mật
báo về phòng tình báo hải quân Trân Châu Cảng rằng 6 tàu sân bay Nhật
"vẫn còn ở trong nước". Nhưng kể từ lúc đó, ông ta hoàn toàn bị mất dấu
vết của chúng, và các ngày sau đó đều báo cáo rằng "không có tin tức
gì". Bằng giọng khôi hài, đô đốc Kimmel đã trách trưởng phòng tình báo
của ông là trung tá Eward Layton:"Anh nghĩ sao, nếu như trong giờ phút
này chúng xuất hiện ngay trên trước Đồi kim cương, còn anh thì không
biết gì về chúng ? Tuy vậy, Kimmel vẫn không có biện pháp nào để đề
phòng các tàu sân bay mất tích này.
Các tàu ngầm hạm đội của Nhật Bản mỗi chiếc mang theo một tàu ngầm con Kiểu A để chở đến vùng biển ngoài khơi Oahu. Năm chiếc tàu ngầm này rời Căn cứ hải quân Kure
vào ngày 25 tháng 11 năm 1941 đi đến một vị trí cách lối vào Trân Châu
Cảng 19 km (10 hải lý) rồi tung các tàu ngầm con ra lúc khoảng 01 giờ 00
giờ Hawaii sáng sớm ngày 7 tháng 12 Lúc 03 giờ 42 phút, chiếc tàu quét mìn USS Condor
phát hiện kính tiềm vọng của một chiếc tàu ngầm bỏ túi ở phía Đông Nam
của phao dẫn vào cảng và đã báo động cho chiếc tàu khu trục US Ward. Con tàu ngầm bỏ túi này có thể đã lọt vào Trân Châu Cảng, nhưng Ward đã đánh chìm được một chiếc khác vào lúc 06 giờ 37 phút, đó là phát súng đầu tiên của Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai. Một chiếc tàu ngầm con khác ở phía Bắc đảo Ford đã bắn trượt tàu Curtiss với quả ngư lôi đầu tiên của nó rồi lại bắn trượt tàu khu trục Monaghan với quả ngư lôi còn lại trước khi bị Monaghan đánh chìm lúc 08 giờ 43 phút.
Chiếc tàu ngầm con thứ ba bị mắc cạn hai lần, một lần
bên ngoài lối vào cảng và một lần nữa ở phía Đông của Oahu, nơi nó bị
bắt giữ vào ngày 8 tháng 12 Thiếu úy Kazuo Sakamaki
rời khỏi nó bơi lên bờ và trở thành tù binh chiến tranh người Nhật Bản
đầu tiên trong Chiến tranh Thái Bình Dương Chiếc thứ tư bị hư hại bởi
cuộc tấn công bằng mìn sâu khiến thủy thủ đoàn phải bỏ tàu khi chưa bắn
được quả ngư lôi nào. Viện Hải quân Hoa Kỳ
vào năm 1999, sau khi đã tiến hành một cuộc phân tích các bức ảnh chụp
cuộc tấn công, cho biết một tàu ngầm bỏ túi có thể đã bắn trúng một ngư
lôi vào chiếc thiết giáp hạm USS West Virginia. Lực lượng Nhật
Bản nhận được một liên lạc vô tuyến từ một tàu ngầm bỏ túi lúc 00 giờ 41
phút ngày 8 tháng 12 báo cáo đã gây hư hại cho một tàu chiến lớn bên
trong Trân Châu Cảng. Số phận của chiếc cuối cùng này cho đến nay vẫn
chưa được xác định
Dù cuộc tấn công trên thực tế đã xảy ra trước khi có
một lời tuyên chiến chính thức của Nhật Bản, Đô đốc Yamamoto ban đầu đã
quy định rằng cuộc tấn công chỉ được thực hiện 30 phút sau khi Nhật Bản
thông báo cho Hoa Kỳ rằng họ muốn chấm dứt các cuộc đàm phán về hòa
bình. Bằng cách này, người Nhật cố gắng đồng thời duy trì các quy ước về
chiến tranh trong khi vẫn đạt được yếu tố bất ngờ. Cho dù có những dự
định như thế, cuộc tấn công đã được khởi sự trước khi bản thông điệp dài
5.000 từ này được chuyển giao. Tokyo truyền bức thông điệp đến Tòa đại
sứ Nhật Bản (chia thành hai phần), mà cuối cùng thời gian truyền quá lâu
để có thể kịp trao cho Hoa Kỳ đúng lúc, trong khi các chuyên viên mật
mã Hoa Kỳ đã giải mã và dịch xong phần lớn bức thông điệp nhiều
giờ trước khi Đại sứ Nhật Bản dự định trao bức thông điệp đó. Tuy được
xem là một lời tuyên chiến, “bức thông điệp không hề tuyên bố chiến
tranh hay ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao hai nước" Việc tuyên chiến
chính thức chỉ được đăng tải trên trang đầu của các tờ nhật báo Nhật Bản
trong số phát hành buổi chiều tối ngày 8 tháng 12
B.1 - Đợt tấn công thứ nhất :
Quân
Nhật tấn công làm hai đợt. Đợt thứ nhất bị radar Lục quân Hoa Kỳ phát
hiện khi còn cách 136 hải lý nhưng nhầm chúng với những máy bay ném bom
Không lực Hoa Kỳ đến từ lục địa
Bên trên:
A. Căn cứ không lực hải quân Ford Island B. Sân bay Hickam C. Sân bay Bellows D. Sân bay Wheeler Field
E. Căn cứ không lực hải quân Kaneohe F. Ewa MCAS R-1. trạm radar Opana R-2. trạm radar Kawailoa R-3. trạm radar Kaaawa
G. Haleiwa H. Kahuku I. Wahiawa J. Kaneohe K. Honolulu
0. B-17 đến từ lục địa 1. Đợt tấn công thứ nhất 1-1. máy bay ném bom bay ngang 1-2. máy bay ném ngư lôi 1-3. máy bay ném bom bổ nhào 2. Đợt tấn công thứ hai 2-1. máy bay ném bom bay ngang 2-1F. máy bay tiêm kích 2-2. máy bay ném bom bổ nhào
Bên dưới:
A. Đảo Wake B. Đảo Midway C. Đảo Johnston D. Hawaii
D-1. Oʻahu 1. USS Lexington 2. USS Enterprise 3. Lực lượng Đặc nhiệm Nhật Bản
Bên trên:
A. Căn cứ không lực hải quân Ford Island B. Sân bay Hickam C. Sân bay Bellows D. Sân bay Wheeler Field
E. Căn cứ không lực hải quân Kaneohe F. Ewa MCAS R-1. trạm radar Opana R-2. trạm radar Kawailoa R-3. trạm radar Kaaawa
G. Haleiwa H. Kahuku I. Wahiawa J. Kaneohe K. Honolulu
0. B-17 đến từ lục địa 1. Đợt tấn công thứ nhất 1-1. máy bay ném bom bay ngang 1-2. máy bay ném ngư lôi 1-3. máy bay ném bom bổ nhào 2. Đợt tấn công thứ hai 2-1. máy bay ném bom bay ngang 2-1F. máy bay tiêm kích 2-2. máy bay ném bom bổ nhào
Bên dưới:
A. Đảo Wake B. Đảo Midway C. Đảo Johnston D. Hawaii
D-1. Oʻahu 1. USS Lexington 2. USS Enterprise 3. Lực lượng Đặc nhiệm Nhật Bản
<21 ft
22-23 ft
29 ft
30-32 ft
33-34 ft
34-35 ft
36-37 ft
38-39 ft
40-41 ft
42-48 ft
>49 ft
City
Army base
Navy base
Các mục tiêu bị tấn công:
1: USS California
2: USS Maryland
3: USS Oklahoma
4: USS Tennessee
5: USS West Virginia
6: USS Arizona
7: USS Nevada
8: USS Pennsylvania
9: Căn cứ không lực hải quân đảo Ford
10: Sân bay Hickam
Các mục tiêu cơ sở hạ tầng bị bỏ qua:
A: Kho chứa dầu
B: toà nhà sở chỉ huy CINCPAC
C: Căn cứ tàu ngầm
D: Xưởng đóng tàu hải quân
22-23 ft
29 ft
30-32 ft
33-34 ft
34-35 ft
36-37 ft
38-39 ft
40-41 ft
42-48 ft
>49 ft
City
Army base
Navy base
Các mục tiêu bị tấn công:
1: USS California
2: USS Maryland
3: USS Oklahoma
4: USS Tennessee
5: USS West Virginia
6: USS Arizona
7: USS Nevada
8: USS Pennsylvania
9: Căn cứ không lực hải quân đảo Ford
10: Sân bay Hickam
Các mục tiêu cơ sở hạ tầng bị bỏ qua:
A: Kho chứa dầu
B: toà nhà sở chỉ huy CINCPAC
C: Căn cứ tàu ngầm
D: Xưởng đóng tàu hải quân
Rạng ngày 7, Nagumo ra lệnh chuyển đội hình hành quân
thành đội hình chiến đấu. Đúng 3 giờ 30 lệnh báo thức phát ra, tất cả
thành viên của "Kido Butai”, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Đó là lúc đoàn
tàu đã đến địa điểm quy định và thả neo ở vị trí này, cách Trân Châu
Cảng hơn 200 dặm về phía Bắc. Mặc dù đã được thông báo chính thức rằng
hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ hiện đang tập trung ở Trân Châu Cảng,
Nagumo vẫn quyết định kiểm tra lại một lần nữa. Lúc 5 giờ 30, ông ra
lệnh cho 4 máy bay trinh sát bay đi quan sát: 2 chiếc đến Trân Châu
Cảng, 2 chiếc kia đến cảng Lahaina trên đảo Maui.
Dưới ánh sáng mờ nhạt của buổi bình minh, sóng biển
vỗ mạnh, tàu nghiêng hơn 12 độ. Thông thường nếu tàu nghiêng hơn 5 độ,
máy bay không được cất cánh. Nhưng hôm nay quy định này đã bị bỏ qua.
Đúng 6 giờ, tham mưu trưởng Lực lượng đặc nhiệm là phó đô đốc Kusaka hạ
lệnh kéo lên lá cờ có chữ Z trên tàu sân bay - kì hạm Akagi để
làm hiệu lệnh chiến đấu. Đó là lá cờ mà đô đốc Togo đã dùng trong trận
hải chiến Tsushima đánh chìm hạm đội Nga hoàng năm 1905. Tư lệnh hành
quân, trung tá Mitsuo Fuchida mặc sơmi đỏ, quấn ngang đầu một tấm băng
trắng để biểu thị tinh thần quyết tử của truyền thống võ sĩ đạo, bước
vào buồng lái chiếc máy bay ném bom cùng với viên phi công và hiệu thính
viên của mình. Trên đường băng của 6 tàu sân bay, các máy bay của đợt
tiến công đầu tiên đã sẵn sàng cất cánh. Đợt tấn công thứ nhất gồm 183
máy bay được phóng lên ở phía Bắc Oʻahu, Sáu máy bay không thể cất cánh do trục trặc kỹ thuật. Chúng bao gồm:
- Nhóm thứ nhất (mục tiêu: các thiết giáp hạm và tàu sân bay)
- 50 máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N trang bị bom xuyên thép 800 kg (1.760 lb), được tổ chức thành bốn đội
- 40 máy bay ném ngư lôi B5N trang bị ngư lôi Kiểu 91, cũng được tổ chức thành bốn đội
- Nhóm thứ hai — (mục tiêu: Ford Island và Wheeler Field)
- 54 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A trang bị bom đa dụng 250 kg (550 lb)
- Nhóm thứ ba — (mục tiêu: máy bay tại các sân bay Ford Island, Hickam Field, Wheeler Field, Barber’s Point và Kaneohe)
- 45 máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M để kiểm soát trên không và bắn phá
Đúng
6 giờ 20, lệnh xuất kích được ban ra. Chỉ trong khoảnh khắc, trong
tiếng gầm rú kinh khủng, 183 máy bay chiến đấu, theo trình tự định sẵn
lao vút lên trời theo những đội hình chữ "V" nối tiếp nhau ào ạt tiến
với tốc độ 125 hải lí/giờ. Mãi đến 7 giờ 35, các máy bay trinh sát mới điện về "Kido Butai": "Hạm đội địch không có ở Lahaina". Và một lát sau:
Khi đợt máy bay tấn công thứ nhất tiến đến gần Oʻahu, một trạm radar SCR-270 của Lục quân Hoa Kỳ đặt tại Opana Point
gần mũi cực Bắc của hòn đảo (một vị trí chưa đưa vào hoạt động, đang
trong giai đoạn huấn luyện được vài tháng) phát hiện ra chúng và phát đi
lời cảnh báo. Dù những người vận hành radar báo cáo rằng sóng dội của
một mục tiêu lớn chưa từng thấy; một viên sĩ quan chưa được huấn luyện
tại một Trung tâm Thông tin vừa được đưa vào vận hành một phần, Trung úy
Kermit A. Tyler, đoán
chừng rằng đó là do sự có mặt của sáu chiếc máy bay ném bom B-17 đang
được dự định sẽ bay đến. Hướng mà những chiếc máy bay bay đến khá gần
(hai hướng bay vào chỉ lệch nhau vài độ), trong khi những người vận hành
chưa từng thấy một đội hình lớn như vậy trên radar; họ đã thờ ơ không
báo cho Tyler về kích cỡ, trong khi Tyler, vì những lý do an ninh, không
thể báo cho họ biết những chiếc B-17 đang sắp đến (dù điều này được
biết một cách rộng rãi)
Nhiều máy bay Hoa Kỳ bị bắn rơi khi đợt tấn công đầu
tiên tiến vào đất liền, và ít nhất một chiếc qua radio đã phát đi lời
cảnh báo dù không được mạch lạc. Các lời cảnh báo khác, xuất phát từ
những chiếc tàu bên ngoài lối vào cảng, vẫn còn đang được xử lý hoặc chờ
đợi để được xác nhận khi những chiếc máy bay tấn công bắt đầu ném bom
và bắn phá. Dù sao, vẫn không rõ là những lời cảnh báo này có đem lại
hiệu quả thiết thực nào hay không ngay cả khi chúng được hiểu đúng đắn
và kịp thời hơn. Có thể thấy điều đó qua kết quả mà quân Nhật đạt được
tại Philippines về cơ bản giống như tại Trân Châu Cảng, cho dù tướng
MacArthur có đến gần chín giờ báo động rằng quân Nhật đã tấn công Trân
Châu Cảng, và đã có các chỉ thị đặc biệt để tiến hành các hoạt động
trước khi đối phương thực sự tấn công sở chỉ huy của ông.
Từ độ cao 3500 m, đoàn máy bay Nhật bay giữa một biển
mây dày dặc tưởng chừng như vô tận khiến các phi công không tránh khỏi
lo lắng. Sau gần một giờ bay, Fuchida ra lệnh cho hiệu thính viên dò bắt
sóng của dài phát thanh Honolulu để ông theo đó mà xác định hướng bay
của phi đoàn. Cũng nhờ thông tin bắt được qua sóng, Fuchida biết được
tình hình thời tiết vùng trời Hawaii nhiều mây riêng tại Oahy mây thưa
thớt; khu vực Trân Châu Cảng hoàn toàn trong sáng đúng với mong muốn của
Fuchida. Lúc 7 giờ 40 phút, Fuchida mừng rỡ nhận ra bầu trời quả nhiên
không còn mây mù. Đúng theo kế hoạch, Fuchida cho toàn phi đoàn lượn
theo bờ biển phía Tây Bắc đảo để tiếp cận mục tiêu. Qua ống nhòm, toàn
cảnh Trân Châu cảng đã hiện ra dưới mắt Fuchida với đầy đủ 8 thiết giáp
hạm xếp hàng thẳng tắp. Chiếc Oklahoma đứng cạnh Maryland, sau đó là chiếc West Virginia bên chiếc Tennesse, tiếp đến chiếc Arizona đứng cạnh chiếc tàu công xưởng mang tên Vestal, chiếc Nevada đứng cuối hàng, còn chiếc California dẫn đầu đứng chếch hàng một chút. Cách một quãng về phía trước là kì hạm của hạm đội, chiếc Pensylvania
có hai khu trục hạm hộ tống. Ngoài ra còn nhiều tuần dương hạm và khu
trục hạm khác nhưng không có tàu sân bay nào. Cả một hạm đội lớn chưa
từng thấy đã gây cho các phi công Nhật một ấn tượng rất mạnh.
Phần không kích của cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng
bắt đầu lúc 7 giờ 48 phút sáng giờ Hawaii (3 giờ 18 phút sáng ngày 8
tháng 12 giờ tiêu chuẩn Nhật Bản, như ghi nhận trên các con tàu thuộc Bộ đội cơ động), bằng việc tấn công vào Kaneohe. Tổng cộng có 353 máy bay Nhật Bản gồm hai đợt bay đến được đến Oʻahu.
Để phát lệnh tấn công, Fuchida đã phát đi mật mã "To ... To ... To ..."
với một phát súng bắn pháo hiệu màu đen, đây là hiệu lệnh tấn công
trong điều kiện địch quân đã bị bất ngờ. Theo đúng dự kiến, 40 máy bay
phóng ngư lôi của trung tá Shigeharu Murata hạ thấp xuống lượn về Trân
Châu cảng. 49 máy bay do Fuchida chỉ huy bắt đầu triển khai theo hướng
đó để sẵn sàng nhập cuộc. Đoàn máy bay ném bom bổ nhào tách làm hai
nhóm: 25 chiếc của trung tá Akira Sakamoto đến sân bay Wheeler, căn cứ máy bay tiêm kích chủ yếu của Không lực Lục quân Hoa Kỳ còn 26 chiếc do trung tá Kakuichi Takahasi chỉ huy thì đến Trân Châu cảng và sân bay Hickam
gần đó. Nhưng nhóm chiến đấu cơ 43 chiếc do trung tá Shigeru Itaya chỉ
huy lại không triển khai được đội hình do không nhìn thấy pháo hiệu.
Fuchida buộc phải bắn thêm phát pháo hiệu nữa. Các phi công lái máy bay
ném bom bổ nhào trông thấy cho rằng pháo hiệu thứ hai này có nghĩa là
tính bất ngờ đã mất nên họ thực hiện theo phương án hai dự phòng là bổ
nhào ném bom xuống các sân bay làm cho kế hoạch bị xáo trộn vì các máy
bay phóng ngư lôi và ném bom bổ nhào đã hành động cùng một lúc. Đúng 7
giờ 53 phút, ngay trước khi trái bom đầu tiên rơi xuống Trân Châu cảng,
Fuchida đánh đi mật mã thứ hai "Tora ... Tora ... Tora ... ". Mật mã này
có nghĩa là cuộc tấn công đã được đảm bảo hoàn toàn bất ngờ. 171 máy
bay trong đợt thứ hai tấn công các sân bay Bellows Field của Không lực Hoa Kỳ gần Kaneohe ở rìa phía Đông của hòn đảo và Ford Island. Chỉ có khoảng một chục chiếc P-36 Hawk và P-40 Warhawk đối đầu với lực lượng Nhật Bản.
Thủy thủ trên những con tàu chiến Hoa Kỳ tỉnh giấc do
tiếng báo động, bom nổ và tiếng súng; buộc những con người còn đang
ngái ngủ vội vã mặc quần áo và lao đến các vị trí trực chiến. Bức điện
nổi tiếng "Air raid Pearl Harbor. This is not drill" (Trân Châu Cảng bị
không kích. Đây không phải là diễn tập), được gửi từ sở chỉ huy Không
đoàn Thám sát 2, là vị chỉ huy cao cấp đầu tiên tại Hawaii trả lời.
Những người phòng thủ hoàn toàn không được chuẩn bị. Các kho đạn còn
đang bị khóa lại, máy bay đậu sát cánh lại với nhau ngoài bãi đậu để
ngăn ngừa phá hoại, các khẩu pháo không có người (không có khẩu pháo 5 inch/38
nào của hải quân và chỉ có một phần tư số súng máy hoạt động, và chỉ có
ba trong tổng số 31 khẩu đội Lục quân đi vào hoạt động). Cho dù với
tình huống như vậy và tình trạng báo động thấp, nhiều quân nhân Hoa Kỳ
đã phản ứng một cách hiệu quả trong trận đánh. Thiếu úy Joe Taussig đã
đưa chiếc thiết giáp hạm USS Nevada của anh khởi hành từ tình trạng lạnh máy trong quá trình cuộc tấn công. Một trong các tàu khu trục, chiếc USS Aylwin,
di chuyển chỉ với bốn sĩ quan trên tàu, tất cả đều là Thiếu úy và không
ai trong số họ có thâm niên phục vụ nhiều hơn một năm; nó hoạt động
ngoài biển được bốn ngày trước khi sĩ quan chỉ huy của nó tìm cách lên
được tàu. Thuyền trưởng Mervyn Bennion, người chỉ huy chiếc thiết giáp hạm USS West Virginia
(soái hạm của Kimmel), đã lãnh đạo người của ông cho đến khi bị trúng
phải mảnh bom từ một quả bom phát nổ trên chiếc thiết giáp hạm USS Tennessee thả neo bên cạnh..
B.2 - Đợt tấn công thứ hai:
Đúng 7 giờ 15, các máy bay của đợt tấn công thứ hai dưới sự chỉ huy của Trung tá Shigekazu Shimazaki
bắt đầu cất cánh bao gồm 171 máy bay: 54 chiếc B5N, 81 chiếc D3A và 36
chiếc A6M. Bốn máy bay đã không thể cất cánh do gặp trục trặc kỹ thuật.
Thành phần và mục tiêu của đợt tấn công này là:
- Nhóm thứ nhất: 54 chiếc B5N trang bị bom đa dụng 250 kg (550 lb) và 55 kg (120 lb)[
- 27 chiếc B5N – mục tiêu: kho và máy bay tại các sân bay Kaneohe, đảo Ford và Barbers Point
- 27 chiếc B5N – mục tiêu: kho và máy bay tại sân bay Hickam
- Nhóm thứ hai (mục tiêu: các tàu sân bay và tuần dương hạm)
- 81 chiếc D3A trang bị bom đa dụng 250 kg (550 lb), được tổ chức thành bốn đội
- Nhóm thứ ba (mục tiêu: máy bay tại các sân bay Ford Island, Hickham Field, Wheeler Field, Barber’s Point, Kaneohe)
- 36 chiếc A6M để phòng thủ và bắn phá
Đợt tấn công thứ hai được chia làm ba nhóm. Một nhóm được giao nhiệm vụ tấn công Kāneʻohe,
số còn lại tập trung vào Trân Châu Cảng. Các nhóm tấn công tách rời đã
bay đến địa điểm tấn công hầu như đồng thời từ nhiều hướng khác nhau
Hai quả ngư lôi đầu tiên đã đánh trúng thiết giáp hạm Oklahoma.
Hai giây sau, thêm 2 quả nữa đập mạnh vào sườn tàu và nổ tung. Nước
tràn vào, tàu nghiêng 30 độ. Phó hạm trưởng Ken Worthy ra lệnh đóng kín
các của sập, ngăn không cho nước tràn vào các khoang khác. Tàu không bị
chìm ngay, nhưng nước vẫn vào. Vài phút sau nó lại nhận thêm một chùm
bom nữa] Loạt ngư lôi tiếp theo đánh trúng chiếc USS Utah,
vốn là một thiết giáp hạm đã 33 năm đi biển, nay được tháo bỏ mọi vũ
khí để trở thành chiếc tàu bia dành cho huấn luyện. Tiếp đó các thiết
giáp hạm West Virginia và California bắt đầu bị trúng ngư lôi riêng thiết giáp hạm California
trúng phải hai bom và hai ngư lôi. Khói đen cuồn cuộn bốc lên từ nhũng
chiếc tàu bị ngư lôi đánh trúng. Người Mĩ cho rằng, độ sâu của vịnh biển
chỉ 10m không thể phóng ngư lôi được, cho nên họ chỉ đề phòng máy bay
ném bom và tàu ngầm mà không thả lưới ngăn ngư lôi quanh các chiến hạm.
Giờ đây, họ đã phải bất ngờ chứng kiến phát minh mới của người Nhật về
cách dùng ngư lôi ở vùng biển nông: cho máy bay bay sát mặt biển với tốc
độ chậm để phóng ra những quả ngư lôi lướt trên mặt nước với tốc độ
cũng rất chậm, chỉ khoảng 30-40 hải lý/giờ.
Đến lúc 8 giờ, tin về cuộc tấn công Trân Châu cảng
mới được báo về Washington và các hạm tàu trên biển. Hỏa lực phòng không
từ các chiến hạm và trên bờ bắn lên mỗi lúc một mạnh. Trên nhiều chiến
hạm, người ta buộc phải phá cửa các hầm chứa vũ khí đạn dược vì không có
thời gian để tìm chìa khóa. Những đám khói đen, trắng của đạn phòng
không nổ tung trên nền trời xanh mỗi lúc một thêm dày đặc, gây khó khăn
cho các phi công Nhật. Hỏa lực phòng không tuy rất mạnh nhưng lại thiếu
tổ chức, nên kết quả bị hạn chế. Trong lúc hoảng loạn, người ta đã lắp
cả đạn huấn luyện vào pháo phòng không để vạch lên trời những đường đạn
vô ích. Tám phút sau khi bị quả ngư lôi đầu tiên đánh trúng thiết giáp
hạm Oklahoma đã bị lật nhào. Nước tràn qua những chiếc cửa sập
không thể đóng lại được nữa. Hơn 400 sĩ quan và thủy thủ mắc kẹt bên
trong chết chìm cùng với tàu. Các cột buồm nằm dưới nước, trên mặt biển
chỉ còn nhô lên mạn bên phải và một phần của sống tàu. Tiếp theo đó,
thêm một loạt bom và ngư lôi đánh trúng chiếc California khiến nó bốc cháy dữ dội và chìm tại chỗ chỉ còn nhô mấy cột buồm lên khỏi mặt nước.
Chiếc Arizona bị ngư lôi đánh hụt, nhưng các
máy bay ném bom đã rót trúng nó 5 trái bom cùng một lúc. Một trong 5
trái đó chui vào ống khói xuống bên dưới nổ ngay ở hầm chứa đạn. Chiếc
tàu phát nổ long trời lở đất với một cột khói và lửa cao 300m rồi gãy
làm đôi trong 9 phút. Cả hai phần tàu chúi xuống biển rồi từ từ chìm dần
làm 1.102 người chết theo tàu. Trong số các tổn thất về nhân mạng về
phía Hoa Kỳ, gần một nửa là do vụ nổ hầm đạn phía trước của chiếc thiết
giáp hạm USS Arizona sau khi nó bị trúng phải một quả bom 40 cm
(16 inch) cải biến. Trên mặt nước, hàng ngàn người bơi khỏi các tàu
đang cháy, định vào bờ đảo Ford nhưng mặt nước bị ngập dầu dày hơn 3
phân, bắt cháy như một biển lửa. Phần đông những người nhảy xuống nước
đều chết cháy.
Từ trên không nhìn xuống, nhiều phi công Nhật lầm tưởng chiếc Utah
là một tàu sân bay, vì nó đậu riêng một chỗ ở bờ bên kia đảo Ford và có
mặt boong trống trải Do đó khoảng nửa tá máy bay Nhật đã lao vào tấn
công liên tục chiếc tàu bia không có vũ khí tự vệ này. Lúc 8 giờ 12
phút, chiếc Utah bị lật úp. Giống như chiếc Maryland đã bị thương sau khi chiếc Oklahoma đậu bên ngoài nó bị đánh chìm, chiếc Tennessee bắt đầu bị trúng bom và ngư lôi sau khi chiếc West Virginia
không còn đứng bên để che cho nó nữa. Còn Nevada là chiếc tàu duy nhất
dứng cuối hàng các thiết giáp hạm, phơi mình chịu hỏa lực máy bay Nhật.
Một quả ngư lôi đánh trúng mũi tàu làm nó hơi chúi xuống và một quả bom
rơi trúng boong phía mạn tàu. Mặc dù bị thương, nhưng các bộ phận điều
khiển và vô tuyến điện trên tàu vẫn còn tốt. Một sĩ quan đã nhận lấy
quyền chỉ huy trong khi vắng hạm trưởng để đưa tàu chạy thoát ra biển.
Thông thường, muốn cho thiết giáp hạm di chuyển, cần phải có hai giờ
rưỡi để khởi động các nồi hơi và sử dụng 4 tàu kéo. Lần này may mắn là
một nồi hơi của tàu đã được khởi động từ sáng sớm để thử máy, nhờ đó tàu
có thể rời cảng sau 45 phút kể từ lúc máy bay Nhật bắt đầu tấn công.
Nhờ sự chỉ dẫn luồng lạch của viên thuyền trưởng một tàu cuốc đậu tại
lối ra vào cảng, chiếc Nevada vừa chạy vừa chiến đấu và khéo léo xoay
chuyển trong bến cảng thật chội đầy khói lửa để tránh bom và ngư lôi.
Hai tàu kéo được phái đến giúp thiết giáp hạm này đi vào luồng lạch.
8 giờ 50 phút, các máy bay của đợt tấn công thứ hai
tiếp cận Oahu theo hướng ngược với đợt 1: vòng qua bờ đông của đảo để
tiến tới mục tiêu. Với sự yểm trợ của 36 chiến đấu cơ, 54 máy bay ném
bom độ cao hướng tới các sân bay và 78 máy bay ném bom bổ nhào do trung
tá Takashige Egusa chỉ huy ập đến Trân Châu Cảng. 8 giờ 55, Shimazaki hạ
lệnh tấn công, nhưng khói lửa mịt mù và hỏa lực phòng không cực mạnh đã
làm cho các phi công mới nhập cuộc khó có thể ném bom chính xác.
Fuchida ra lệnh cho các máy bay đợt 1 quay trở về còn mình thì nhập vào
đợt 2, lập tức bắt liên lạc với Shimazaki để chỉ dẫn và giao nhiệm vụ
cho các phi công mới tới. Các máy bay ném bom bổ nhào của Egusa đã nhanh
chóng xác định được mục tiêu của mình: đánh tiếp vào các thiết giáp hạm
còn lại và tấn công các tuần dương hạm, khu trục hạm.
Từ trên không nhìn qua màn khói, các phi công Nhật vẫn thấy rõ chiếc Nevada
đang di chuyển. Khi thiết giáp hạm đã tiến vào luồng lạch, máy bay Nhật
đã dồn dập tấn công nhằm đánh chìm nó để bịt kín lối ra vào Trân Châu
Cảng] Thêm 6 quả bom rơi trúng tàu làm tung lên trời chiếc cầu gần ống khói và những cấu trúc phía trước. Tuy vậy chiếc Nevada
vẫn ngoan cường bắn trả mãnh liệt và tiếp tục tiến lên. Nhưng đến 9 giờ
10 phút thì tàu bị mắc cạn ngay gần lối ra vào cảng. Nhờ đó, viên hạm
trưởng mới đuổi kịp và leo lên mạn tàu, nhận lại trách nhiệm chỉ huy của
mình. Trong suốt trận đánh, trên chiếc Nevada
có 50 người tử trận và hơn 100 người khác bị thương. Nhưng các thủy binh
dũng cảm đã giữ cho con tàu của mình không bị đánh chìm.
Thiết giáp hạm Pennsylvania, kì hạm của hạm
đội, với hai khu trục hạm đứng sát hai bên cùng đậu ở ụ tàu. Nước trong ụ
tàu đã được hút ra, các chiến hạm được hạ xuống và nhũng tấm chắn cao
của ụ tàu khô đã che chở cho các chiến hạm bên trong thoát khỏi đòn
giáng của ngư lôi Nhật. Nhưng những tấm chắn đó lại cản trở tầm nhìn của
các xạ thủ phòng không trên tàu, khiến họ không thể thấy máy bay địch
từ xa và luôn bị tấn công bất ngờ. Nhận ra điều đó, một công nhân lái
chiếc cần cẩu chạy trên đường ray dọc theo tấm chắn ụ tàu tên là George
Walters đã quyết định đóng góp phần mình vào việc bảo vệ các chiến hạm.
Ngồi trên buồng lái cần cẩu ở độ cao 15m, Walters theo dõi các máy bay
địch tiến đến ụ tàu và cho cần cẩu di động về hướng có máy bay. Các xạ
thủ nhận ra ý nghĩa của hành động này đã hướng mũi súng theo chiếc cần
cẩu để kịp thời bắn chặn máy bay địch, hạn chế độ chính xác của các trận
mưa bom. Nhờ vậy, mặc dù cả hai khu trục hạm cùng chiếc cần cẩu có
người công nhân anh hùng ấy bị bom phá hủy tan tành, thiết giáp hạm Pennsylvania chỉ bị thương không nặng lắm.[
Theo nhận định của Fuchida, các máy bay của đợt 2 đã lao vào tấn công
những chiến hạm có hỏa lực phòng không mạnh nhất bởi vì những chiến hạm
này đã bị tổn thất ít hơn trong đợt tấn công thứ nhất.
Thiết giáp hạm USS West trúng phải bảy ngư lôi, quả thứ bảy xé rách bánh lái của nó. Trong giây lát, chiếc West Virginia bốc cháy và chìm xuống biển khi vẫn giữ thăng bằng Thiết giáp hạm USS Oklahoma trúng phải bốn ngư lôi, hai quả cuối cùng chạm đích phía trên đai giáp bảo vệ làm cho nó bị lật úp. Thiết giáp hạm USS Maryland trúng phải hai quả đạn 40 cm được cải biến, nhưng không bị hư hại nghiêm trọng.
Mặc dù quân Nhật tập trung vào các tàu chiến lớn quan
trọng nhất, họ cũng không bỏ qua các mục tiêu khác. Tàu tuần dương hạng
nhẹ USS Helena bị trúng ngư lôi, và sự rung chuyển của vụ nổ đã làm lật úp chiếc tàu thả mìn USS Oglala
kế cận. Hai tàu khu trục đang nằm trong ụ tàu bị phá hủy khi bom xuyên
trúng bồn chứa nhiên liệu của chúng. Nhiên liệu bị rò rỉ đã bắt lửa, và
nỗ lực dập lửa bằng cách làm ngập ụ tàu đã khiến dầu đang bốc cháy dâng
cao thiêu rụi con tàu. Tàu tuần dương hạng nhẹ USS Raleigh bị thủng một lỗ bởi ngư lôi. Tàu tuần dương hạng nhẹ USS Honolulu bị hư hại nhưng vẫn tiếp tục hoạt động. Tàu khu trục USS Cassin bị lật úp, còn tàu khu trục USS Downes bị hư hỏng nặng. Chiếc tàu sửa chữa USS Vestal neo đậu bên cạnh chiếc Arizona bị hư hỏng nặng và mắc cạn. Tàu chở thủy phi cơ USS Curtiss cũng bị hư hại. Tàu khu trục USS Shaw bị hư hỏng đáng kể khi hai quả bom xuyên trúng hầm đạn phía trước.
Nếu như hải quân chỉ lo đối phó với tàu ngầm thì lục
quân và không quân của lục quân trên đảo chỉ đề phòng bọn phá hoại,
không hề chuẩn bị đối phó với một cuộc tấn công bằng không quân. Theo
lệnh tướng Short, máy bay trên các sân bay đều được xếp thành từng tốp
cánh sát cánh và thẳng hàng với nhau trên những bãi đậu hoàn toàn trống
trải. Bố trí như vậy là để chống phá hoại máy bay, nhưng lại tạo ra điều
kiện lý tưởng để không quân dịch tiêu diệt chúng. Các thủy phi cơ tại
căn cứ Kaneohe của hải quân cũng xếp hàng thẳng tắp.
7 giờ 50 phút, loạt bom đầu tiên đã rơi xuống sân bay Wheeler,
căn cứ chính của các chiến đấu cơ. Các sĩ quan không quân Hoa Kỳ đang
ngủ trong một doanh trại gần sân bay choàng tỉnh dậy và nhốn nháo hẳn
lên. Có người tưởng là động đất, người khác cho rằng máy bay của hải
quân diễn tập. Nhưng khi chạy ra ngoài thì họ đã hiểu: các máy bay Nhật
nối tiếp nhau bổ nhào xuống ném bom sân bay. Đó chính là đoàn máy bay
ném bom bổ nhào của trung tá Akira Sakamoto. Những tốp máy bay Mĩ đậu
sát nhau trên bãi đã bùng cháy. Một số phi công Hoa Kỳ nâng đệm trải
giường lên đầu chạy ra sân bay để cố cứu máy bay của mình.
7 giờ 55 phút, máy bay Nhật thuộc phi đoàn của trung tá Kakuichi Takashi bắt đầu ném bom tấn công sân bay Hickam.
Lục quân và không quân trên đảo được báo động gần như cùng lúc với hải
quân. Từ các sân bay, người ta dùng bất cứ loại vũ khí nào kiếm được để
bắn lên trời: từ súng máy, súng trường cho đến cả súng lục Nhưng hỏa lực
chủ yếu vẫn dựa vào hơn 80 khẩu pháo phòng không cỡ 3 inches, 20 pháo
phòng không 37 mm và hơn 100 súng máy cỡ lớn nhưng vì thiếu tổ chức phối
hợp nên không gây thiệt hại đáng kể cho máy bay Nhật.
Chỉ trong ít phút đầu, các căn cứ không quân của lục
quân là Wheeler, Hickam, Bellows cũng như các căn cứ không quân của hải
quân ở Kaneohe, đảo Ford và sân bay Ewa đều bị tàn phá khủng khiếp. Phối
hợp với các máy bay ném bom bổ nhào, các
chiến đấu cơ Nhật cũng sà xuống xả súng vào các sân bay và các ổ phòng
không. Không một máy bay nào của hải quân Mĩ có thể bay lên được vì hầu
hết chúng đã bị phá hủy. Các thủy phi cơ đã chìm hoặc cháy ngay trong
nhà để máy bay. Các phi công của hải quân trên đảo Ford mất hết máy bay
đã nấp sau các cây cọ để chiến đấu bằng súng lục và súng trường.[
Trên tất cả các sân bay của lục quân, cũng chỉ có 10 máy bay Mĩ cất
cánh. Trong trận không chiến không cân sức trên bầu trời Oahu sáng hôm
đó, các máy bay này đã hạ được 11 máy bay Nhật. Trong đó, chỉ riêng hai
trung úy George Welch và Kenneth Taylor đã bắn rơi 7 chiếc và trở thành các anh hùng không quân đầu tiên của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh này.
Khoảng 8 giờ, các pháo đài bay khổng lồ B-17 có 4
động cơ của Hoa Kỳ mà người ta chờ đón đã đến Oahu sau khi hoàn tất
chuyến bay kỉ lục 14 giờ không nghỉ. Thiếu tá Truman Landon chỉ huy phi
đội đi trong tốp đầu gồm 6 chiếc. Trông thấy nhiều chiến đấu cơ lượn
vòng trên đảo, ông nghĩ rằng không quân Mĩ ở đây đang bay lên để đón
chào đội bay của mình. Nhưng khi các chiến đấu cơ ấy lao vút đến gần các
pháo đài bay và bắn xả vào các máy bay Mĩ, thì Landon đã nhận rõ tình
hình. Các máy bay của Landon bay tán loạn và vội vã tìm nơi hạ cánh.
Chịu đựng cùng một lúc từng tràng đạn súng máy của các máy bay Nhật và
hỏa lực phòng không Mĩ, chiếc pháo đài bay của Landon cùng 4 chiếc khác
lần lượt đáp xuống sân bay Hickam giữa những máy bay đang bốc cháy trên
mặt đất, còn 1 chiếc bay lên phía Bắc và hạ cánh xuống sân bay Bellows
đang bị tàn phá.
Tốp 6 chiếc pháo đài bay thứ hai do đại úy Richard
Cannichael chỉ huy cũng dự định đáp xuống Hickam nhưng tình hình nguy
hiểm ở đây đã làm chúng phải phân tán đi nhiều hướng. Hai chiếc đến
Wheeler nhưng bị bắn mạnh lại phải vòng về Haleiwa và hạ cánh một cách
khó khăn trên đường băng quá ngắn của sân bay này. Một chiếc bay lên tận
mỏm cực bắc của đảo để đáp xuống một bãi đất hoang gần biển. Ba chiếc
còn lại liều mạng hạ cánh tại Hickam giữa làn đạn phòng không bắn xối
xả. Trên thân các pháo đài bay, ngoài phù hiệu không quân còn có hàng
chữ “USARMY" viết rất lớn. Nhưng trong cơn hoảng loạn, các xạ thủ phòng
không Mĩ hoặc đã không nhận thấy hoặc cho rằng quân Nhật đã sơn lên thân
máy bay chữ ấy để đánh lừa họ. Nhờ có vỏ thép dày và cấu tạo đặc biệt,
các pháo đài bay Mĩ không bị đạn súng máy và đạn phòng không hủy diệt.
Tất cả đã hạ cánh an toàn với một số tổn thương.
Một lúc sau, sau khi hoàn tất việc đua một đội hạm tàu và các chiến đấu cơ đến đảo Wake, tàu sân bay Mĩ Enterprise do đô đốc William Halsey
điều khiển trở về căn cứ. Sáng 7 tháng 12, còn cách Oahu 200 dặm về
phía Tây, khi chưa được biết về cuộc tấn công Trân Châu Cảng, đô đốc
Halsey đã phái một đoàn máy bay gồm 19 chiếc bay về trước để thăm dò
tình hình và báo cáo với Bộ tư lệnh hạm dội về nhiệm vụ đã hoàn thành.
Gần 8 giơ 30 phút, tốp đầu tiên trong số đó gồm 6 máy bay phóng ngư lôi
đã tiếp cận Trân Châu Cảng và chứng kiến một cảnh tượng mà các phi công
của đội bay cho là "cuộc diễn tập ngày chủ nhật". Lúc sắp sửa hạ cánh
xuống sân bay trên đảo Ford, máy bay của họ bị các chiến đấu cơ Nhật bám
đuôi và bắn xối xả đồng thời hỏa lực phòng không Mĩ cũng tập trung bắn
vào họ. Khi các phi công Mỹ hiểu rõ sự tình thì đã muộn: 5 máy bay của
họ bị bắn rơi, thỉ còn 1 chiếc đáp xuống sân bay với thương tích đầy
mình.
Thành phố Honolulu chỉ bị một trái bom Nhật lạc hướng
rơi trúng. Còn 40 vụ nổ khác trong thành phố là do lực lượng phòng
không Mĩ gây ra, làm 68 thường dân chết và bị thương.Đúng 9 giờ 45 phút,
Mitsuo Fuchida ra lệnh cho tất cả các máy bay Nhật quay tụ về mũi đất
Kaena để quay về hạm đội, kết thúc cuộc tấn công. Tiếng đạn bom im bặt,
nhưng trên bầu trời Oahu vẫn còn một máy bay Nhật bay lượn thêm nửa giờ
nữa. Đó là máy bay của tư lệnh hành quân Fuchida đang xác định lại lần
cuối cùng kết quả của trận đánh. Những đám cháy vẫn còn bốc cao trên
cảng làm ông khó quan sát, nhưng Fuchida cũng chụp được nhiều bức ảnh
tốt. Việc đánh giá mức độ hủy diệt tại các sân bay có khó khăn hơn nhưng
thực tế trên trời không hề có một máy bay Hoa Kỳ nào đã cho thấy được
kết quả
Gần 10 giờ sáng, lần lượt các máy bay phóng ngư lôi,
các máy bay ném bom và sau cùng là các chiến đấu cơ của đợt tấn công
thứ nhất đã quay trở về đoàn chiến hạm "Kido-Butai". Một giờ sau, đến
lượt các máy bay của đợt hai hạ cánh. Các máy bay vừa mới trở về lập tức
được sửa chữa, nạp nhiên liệu, lắp vũ khí để chờ lệnh xuất kích. Trung
tá Genda lên gặp đô đốc Nagumo đề nghị cho hạm đội lưu lại Hawaii thêm
một số ngày nữa để tìm kiếm và tiêu diệt các tàu sân bay địch.
Khoảng gần giữa trưa, chiếc máy bay cuối cùng mang số hiệu 321 đáp vội vã xuống boong kì hạm Akagi,
đó là máy bay của Fuchida. Bất chấp những lời nài nỉ của Fuchida và
Genda nên xuất kích đợt tấn công thứ ba, đúng 13 giờ, đô đốc Nagumo ra
lệnh nhổ neo và toàn thể các chiến hạm của "Kido-Butai" quay sang hướng
Tây thẳng tiến về bờ biển Nhật Bản.
Ở cách Hawaii hơn 5000 dặm, Hạm đội Liên hợp thả neo tại một vịnh biển thuộc hòn đảo nhỏ Hashirajima gần thành phố Hiroshima bên bờ Nội Hải
(Nhật Bản) được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu từ khi bắt đầu
cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Ngay từ 2 giờ sáng, đô đốc Isoroku
Yamamoto và Bộ tham mưu của ông đã có mặt trong buồng chỉ huy thiết giáp
hạm Nagato với một tấm bản đồ lớn của vùng Hawaii trên bàn và
một máy khuếch đại âm thanh vô tuyến trên tường. Khoảng 8 giờ, trung tá
Watanabe ghi nhận tổn thất của Hoa Kỳ trên một tờ giấy và trao cho tư
lệnh đọc:
- Thiết giáp hạm: 3 chiếc chìm, 4 chiếc bị hư hỏng.
- Tuần dương hạm: 2 chiếc bị hư hỏng.
- Khu trục hạm: 2 hoặc 3 chiếc bị hư hỏng.
- Máy bay bị phá: hàng trăm chiếc.
Sau khi nghiên cứu một lát, Yamato ra lệnh "Quá tốt nếu là sự thật. Kiểm chứng lại. Chiều nay khi nào chắc chắn rồi mới trình Thiên hoàng.. Trên thực tế, số liệu thực sự về tổn thất Hoa Kỳ còn lớn hơn báo cáo ấy
C- TỔN THẤT HAI BÊN
C.1 : VỀ PHÍA HOA KỲ :
Chín mươi phút kể từ khi bắt đầu, cuộc tấn công kết
thúc. 2.386 người Mỹ bị thiệt mạng (55 người là thường dân, đa số bị
giết khi các quả đạn pháo phòng không không được kích nổ rơi xuống các
khu vực dân cư), và thêm 1.139 người khác bị thương. Mười tám tàu bị
đánh chìm, kể cả năm chiếc thiết giáp hạm.
Trong số 402 máy bay Mỹ có mặt tại Hawaii, 188 chiếc
bị phá hủy và 159 chiếc bị hư hỏng, 155 trong số đó đậu trên mặt đất.
Hầu như không có chiếc nào thực sự sẵn sàng để cất cánh nhằm bảo vệ căn
cứ. Trong số 33 chiếc thủy phi cơ PBY ở
Hawaii, 24 chiếc bị phá hủy và sáu chiếc khác bị hư hỏng nặng đến mức
không thể sửa chữa, ba chiếc khác đang phiên đi tuần tra khi cuộc tấn
công xảy ra đã quay trở về an toàn. Pháo phòng không cũng đã bắn nhầm
một số máy bay Mỹ, kể cả năm chiếc xuất phát từ tàu sân bay USS Enterprise trên đường quay về. Cuộc tấn công của Nhật vào các trại binh cũng đã gây thêm một số thương vong.
C.2- VỀ PHIÁ NHẬT :
Về phía Nhật, 55 phi công và chín thủy thủ tàu ngầm
tử trận cùng một người bị bắt làm tù binh. Trong số 414 máy bay tham gia
tấn công, 29 chiếc bị mất trong trận đánh (chín chiếc trong đợt tấn
công thứ nhất và 20 chiếc trong đợt thứ hai), cùng 74 chiếc khác bị hư
hại do hỏa lực phòng không từ mặt đất.
Khả năng thực hiện đợt tấn công thứ ba
Nhiều sĩ quan cấp dưới của Nhật Bản, trong đó có cả Mitsuo Fuchida và Minoru Genda,
kiến trúc sư chính của cuộc tấn công, đã thuyết phục Đô đốc Nagumo tiếp
tục thực hiện đợt không kích thứ ba nhằm tiêu diệt càng nhiều càng tốt
nhiên liệu và ngư lôi dự trữ tại Trân Châu Cảng, cũng như các cơ sở sửa
chữa và ụ tàu. Các sử gia quân sự đều cho rằng việc phá hủy các cơ sở
này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Hạm đội Thái Bình Dương nặng nề hơn
nhiều so với phá hủy các thiết giáp hạm.[ Nếu chúng bị quét
sạch, "các chiến dịch quân sự nghiêm túc tại Thái Bình Dương phải bị trì
hoãn hơn một năm. Tuy nhiên, Nagumo đã quyết định rút lui vì nhiều lý
do:
- Hỏa lực phòng không Hoa Kỳ đã cải thiện đáng kể trong đợt tấn công thứ hai, và hai phần ba các tổn thất của phía Nhật Bản xảy ra trong đợt này. Nagumo cảm thấy nếu ông tung ra đợt tấn công thứ ba, ông sẽ phải đặt ba phần tư sức mạnh tấn công của Hạm đội Liên hợp vào nguy hiểm để càn quét các mục tiêu còn lại (bao gồm các cơ sở nói trên) trong khi phải chịu nhiều tổn thất máy bay hơn nữa.
- Vị trí của các tàu sân bay Hoa Kỳ vẫn còn chưa được biết. Thêm vào đó, vị Đô đốc còn lo ngại rằng lực lượng của ông giờ đây nằm trong tầm hoạt động của những máy bay ném bom Mỹ xuất phát từ mặt đất. Nagumo không chắc chắn rằng liệu Hoa Kỳ có còn đủ số máy bay còn sót tại Hawaii để tung ra một cuộc tấn công vào các tàu sân bay của ông hay không[
- Một đợt tấn công thứ ba đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thích đáng và thời gian quay vòng, điều này có nghĩa là những máy bay tấn công khi quay trở về sẽ phải hạ cánh lúc trời tối. Cho đến thời ấy, chưa có lực lượng hải quân nào phát triển hay thực hành kỹ thuật tàu sân bay ban đêm, nên đây là rủi ro lớn.
- Tình hình nhiên liệu của Lực lượng Đặc nhiệm không cho phép ông nán lại vùng biển phía Bắc Hawaii lâu hơn nữa, vì ông đang ở sát giới hạn của khả năng tiếp vận. Việc tiếp tục tấn công sẽ mạo hiểm làm cạn đáng kể nhiên liệu, thậm chí đến mức phải bỏ lại các tàu khu trục trên đường quay trở về.
- Ông tin rằng đợt tấn công thứ hai về cơ bản đã thỏa mãn mục đích chủ yếu của nhiệm vụ, đó là vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương, và không cần thiết phải mạo hiểm để gánh thêm nhiều thiệt hại khác. Hơn nữa, hoạt động của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thiên về việc bảo toàn sức mạnh hơn là tiêu diệt toàn bộ đối phương.
Trong một hội nghị trên chiếc thiết giáp hạm Yamoto
vào buổi sáng ngày hôm sau, Yamamoto thoạt tiên ủng hộ Nagumo. Sau này,
khi nhìn lại, việc bỏ sót các ụ tàu, công xưởng sửa chữa và kho dầu
mang ý nghĩa sống còn đó khiến cho người Mỹ có thể phản ứng tương đối
nhanh chóng các hoạt động của Nhật tại Thái Bình Dương. Yamamoto sau đó
đã lấy làm tiếc cho quyết định rút lui của Nagumo và thẳng thừng cho
rằng đó là một sai lầm lớn khi không tung ra đợt tấn công thứ ba.
Đại tá Hải quân Homer N. Wallin (đứng giữa) giám sát các công việc trục vớt trên chiếc USS California, đầu năm 1942.
D- NHỮNG HỆ LỤY SAU CUỘC CHIẾN :
12 giờ 30 phút ngày 8 tháng 12, tổng thống Roosevelt
đã đọc Tuyên cáo chiến tranh của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản. Ông mở đầu bài
diễn văn như sau:
“ | Hôm qua, ngày 7-12, một ngày của sự nhục nhã – Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã bị các lực lượng hải quân và không quân của đế quốc Nhật tấn công bất ngờ và không tuyên chiến…. | ” |
Sau khi nói rõ thiện chí hòa bình và sự tráo trở của
Nhật Bản trong các cuộc hội đàm và trong hành động thực tế để dẫn đến
chiến tranh, tổng thống Roosevelt tuyên bố:
“ | Tôi yêu cầu lưỡng viện của quốc hội Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản, kể từ ngày chủ nhật hôm qua.” | ” |
Hoa Kỳ đã chính thức bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản. Trong ngày 7 tháng 12, Úc cũng tuyên chiến với Nhật Bản ,] và một ngày sau đến lượt Hà Lan Tiếp đó, nước Pháp , New Zealand, Canada,… tất cả hơn 20 nước cũng lần lượt tuyên chiến với Nhật.
Tin chiến tranh giữa Nhật và Hoa Kỳ bùng nổ bay đến
Berlin một cách đột ngột trong lúc Đức Quốc xã đang tập trung mọi sự chú
ý vào vào mặt trận phía Đông, nơi Hồng quân Liên Xô đã phản công mãnh
liệt đẩy lùi quân Đức trước Moscow. Liền đó, cũng trong ngày 8 tháng 12,
Quốc trưởng Adolf Hitler đã nhận được thông điệp của chính phủ Nhật,
yêu cầu Đức và Ý tuyên chiến với Hoa Kỳ theo như cam kết trong Hiệp ước
Tam cường. Đêm ngày 9 tháng 12, cả Hitler lẫn Mussolini đã điện trả lời
chính phủ Nhật rằng cam đoan cả ba nước sẽ chiến đấu đến thắng lợi cuối
cùng, không giảng hòa riêng rẽ nhưng vẫn né tránh việc tuyên chiến với
Hoa Kỳ. Trưa ngày 10 tháng 12, đại sứ Nhật Oshima đã trình lên Quốc
trưởng một thông điệp mới của chính phủ Nhật trả lời điện văn nói trên
của Đức và Ý. Thông điệp này bày tỏ hi vọng quân đội Đức sẽ tiến ngay
vào Trung Cận Đông với ngụ ý Đức nên tuyên chiến] Ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop
cố gắng thuyết phục Hitler không nên tuyên chiến với Hoa Kỳ vì theo
Hiệp ước Tam Cường, Đức sẽ chiến đấu bên cạnh Nhật chỉ khi Nhật bị một
nước khác tấn công. Tuy nhiên, vào lúc ấy, bộ ngoại giao Đức lại nhận
được điện của tham tán ngoại vụ Hans Thompson ở Washington D.C rằng 24
giờ nữa Hoa Kỳ sẽ tuyên chiến hoặc cắt quan hệ ngoại giao với Đức. Chụp
lấy cơ hội này, Hitler vội vã triệu tập Quốc hội vào ngày 11 tháng 12 và
chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ. Cùng trong ngày hôm ấy, Ý cũng tuyên
chiến với Hoa Kỳ và Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Hitler đã phát biểu
trong dịp này như sau:
- “Sự kiện Chính phủ Nhật Bản, vốn đã thương lượng trong nhiều năm cùng con người này Franklin D. Roosevelt, cuối cùng đã trở nên mệt mỏi vì bị ông ta chơi xấu một cách vô ơn, đã khiến cho tất cả chúng ta, dân tộc Đức, cùng tất cả các dân tộc có lương tri khác trên thế giới, cảm thấy vô cùng thất vọng... Đức và Ý, sau khi xem xét tất cả các điều này và vì sự trung thành với Hiệp ước ba bên cuối cùng đã buộc phải tiến hành cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ và Anh Quốc, hiệp cùng và sát cánh với Nhật Bản để bảo vệ và từ đó duy trì sự tự do và độc lập của các quốc gia và vương quốc của họ... Là kết quả của sư bành trướng chính sách của Tổng thống Roosevelt, vốn nhắm vào việc chinh phục thế giới và độc tài vô giới hạn, Hoa Kỳ cùng với Anh Quốc đã không ngần ngại sử dụng mọi phương cách để tranh chấp các quyền lợi của các quốc gia Đức, Ý và Nhật Bản thậm chí đến quyền sinh tồn... Không chỉ vì chúng ta là đồng minh của Nhật Bản, mà còn vì Đức và Ý có đủ sáng suốt và sức mạnh để nhận thức rằng, trong khoảnh khắc lịch sử này, sự tồn tại hay biến mất của các quốc gia, có thể được quyết định mãi mãi.”
Không
ảnh chụp bên trên hàng thiết giáp hạm tại bờ phía Nam đảo Ford, ngày 10
tháng 12 năm 1941, cho thấy những thiệt hại mà cuộc tấn công gây ra ba
ngày trước đó. Góc trên bên trái là USS California (BB-44) bị đánh chìm, với nhiều tàu nhỏ vây quanh. Lần lượt chéo từ giữa trái đến góc dưới phải: USS Maryland (BB-46) bị hư hại nhẹ, cùng với USS Oklahoma (BB-37) bị lật úp bên ngoài, và một sà lan đang cặp theo Oklahoma hỗ trợ các công việc cứu hộ. USS Tennessee (BB-43) bị hư hại nhẹ, cùng với USS West Virginia (BB-48) bị đánh chìm bên ngoài. USS Arizona (BB-39)
bị đánh chìm, khi thân tàu bị vỡ do vụ nổ hầm đạm bên dưới hai tháp
pháo phía trước. Đáng chú ý là các vệt dầu đen loang ra mặt nước trong
cảng, xuất phát từ các con tàu bị đánh chìm.
Cho dù cuộc tấn công gây thiệt hại trên diện rộng cho
tàu chiến và máy bay Mỹ, nó đã không ảnh hưởng đến các cơ sở dự trữ
nhiên liệu, xưởng sửa chữa và các cơ quan tình báo tại Trân Châu Cảng.
Cuộc tấn công là một cú sốc thật sự đối với tất cả
các nước Đồng Minh tại Mặt trận Thái Bình Dương. Các thiệt hại tiếp theo
sau tạo ra một sự thụt lùi đáng báo động. Ba ngày sau, sự kiện các tàu
chiến Prince of Wales và Repulse bị đánh chìm ngoài khơi bờ biển Malaya
khiến Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill sau này nhớ lại: "Trong suốt
cuộc chiến tranh tôi chưa bao giờ nhận được một cú sốc trực tiếp đến
như thế. Khi tôi trăn trở trên giường, nỗi sợ hãi bao trùm lấy tâm trí
tôi. Không còn chiếc tàu chiến chủ lực Anh hay Hoa Kỳ nào còn lại trên
Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương trừ những chiếc của Hoa Kỳ còn sống sót
tại Trân Châu Cảng đang vội vã lui về California. Trên các vùng biển
mênh mông này người Nhật đang là bá chủ, và chúng ta đang yếu đuối và
trần trụi ở mọi nơi".
May mắn cho phía Hoa Kỳ, các tàu sân bay Hoa Kỳ đã
không bị đụng đến trong cuộc tấn công của Nhật; nếu không thì khả năng
tiến hành các chiến dịch tấn công của Hạm đội Thái Bình Dương sẽ bị tê
liệt trong khoảng một năm (nếu không chuyển hướng một phần lực lượng Hạm
đội Đại Tây Dương). Như đã thấy, lực lượng thiết giáp hạm bị loại bỏ
khiến Hải quân Hoa Kỳ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách dựa vào
các tàu sân bay và tàu ngầm, chính những vũ khí đã giúp Hoa Kỳ chặn đứng
và đảo ngược thế thượng phong của Nhật Bản. Năm trong số tám thiết giáp
hạm được sửa chữa và quay trở lại hoạt động, nhưng vận tốc chậm của
chúng làm giới hạn hoạt động được bố trí, và chúng phục vụ chủ yếu trong
vai trò bắn phá bờ biển. Một thiếu sót lớn trong tư duy chiến lược của
Nhật Bản là niềm tin về một trận chiến Thái Bình Dương cuối cùng được
đấu giữa những thiết giáp hạm theo đúng học thuyết của Thuyền trưởng Alfred Mahan.
Hậu quả là, Yamamoto (và những người kế tiếp ông) cố dành dụm những
chiếc thiết giáp hạm cho một "trận chiến quyết định" không bao giờ xảy
ra.
Cuối cùng, các mục tiêu không nằm trong danh sách của
Genda, như căn cứ tàu ngầm và ngôi nhà sở chỉ huy cũ, đã chứng tỏ tầm
quan trọng lớn hơn mọi chiếc tàu chiến. Chính những chiếc tàu ngầm đã vô
hiệu hóa những con tàu nặng nề của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đưa
tình trạng kinh tế của Nhật Bản đến mức trì trệ bằng cách phá hỏng sự
vận chuyển dầu mỏ và nguyên liệu thô. Tương tự, tầng hầm của ngôi nhà sở
chỉ huy cũ là trụ sở của đơn vị phân tích mật mã vốn đã góp phần đáng kể vào trận mai phục Midway và thành công của lực lượng tàu ngầm. Đô đốc Hara Tadaichi đã tóm lược kết quả cuộc tấn công về phía Nhật Bản bằng một câu nói súc tích: "Chúng ta thắng một chiến thắng chiến thuật vĩ đại tại Trân Châu Cảng, và do đó đã thua cả cuộc chiến."
Trong khi đạt được các mục tiêu đặt ra, cuộc tấn công
lại tỏ ra hoàn toàn không cần thiết. Điều mà Đô đốc Isoroku Yamamoto -
người đầu tiên nghĩ ra kế hoạch - chưa bao giờ biết đến, đó là Hải quân
Hoa Kỳ ngay từ năm 1935 đã từ bỏ dự định “xung phong” băng ngang suốt
Thái Bình Dương đến tận Philippines để trả đũa hành động mở đầu chiến
tranh (như quy định trong Kế hoạch Cam). Thay vào đó Hoa Kỳ chấp thuận "Kế hoạch Dog"
vào năm 1940, nhấn mạnh đến việc giữ cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản bên
ngoài khu vực Đông Thái Bình Dương và cách xa con đường biển vận chuyển
đến Úc trong khi Hoa Kỳ tập trung vào việc đánh bại Đức Quốc Xã
Tác giả Robert Leckie nhận xét rằng "Tổng
thống Franklin Roosevelt đã khôn ngoan che dấu những chi tiết của thảm
họa này hơn là chịu đựng nguy cơ về sự hoảng sợ của công chúng, và chỉ
công bố những chi tiết này sau khi Hoa Kỳ đã bắt đầu phản công tại Guadalcanal" vào tháng 8 năm 1942.
-
Một máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M2 "Zero" Nhật Bản thuộc đợt tấn công thứ hai đang cất cánh từ tàu sân bay Akagi vào buổi sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941.
-
Những chiếc Zero thuộc đợt tấn công thứ hai chuẩn bị cất cánh từ tàu sân bay Shokaku để tấn công Trân Châu Cảng
-
Một máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate" Nhật Bản cất cánh từ tàu sân bay Shokaku.
-
Những chiếc máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A1 "Val" Nhật Bản thuộc đợt tấn công thứ hai đang chuẩn bị cất cánh. Chiếc tàu sân bay Sōryū đang ở phía sau.
-
Sau trận tấn công: USS West Virginia (hư hỏng nặng), USS Tennessee (hư hỏng) và chiếc USS Arizona (bị đánh chìm).
E - BÌNH LUẬN VIẾT RIÊNG CHO EN TRY :
Tôi vừa tường trình chi tiết, hình ảnh với quý vị và
các bạn một trận đánh không tiền khoáng hậu của Nhật Bản và Hoa Kỳ , một
cuộc đối đầu sinh tử gữa hai lực lượng Châu Á và Châu Âu trong thế
chiến thứ hai ..Ở đây tôi không bình luận về những lý do dẫn đến cuộc
chiến như ai đúng ai sai, vì thời buổi chiến tranh cái đúng bên nầy sẽ
là cái sai của bên kia rất khó nhận định khách quan. .Tôi chỉ bình luận
về tinh thấn, một yếu tố then chốt khi khởi động chiến tranh từ một nước
nhỏ ở Châu Á : Nhật Bản.
Theo tôi , khi phát động chiến tranh, Nhật Bản
chỉ dựa vào một yếu tố duy nhất : đó là tinh thần yều nước dũng cãm của
người Nhật quyết tử cho tổ quốc quyết sinh . Ai cũng biết rằng Nhật Bản
trong thế chiến thứ hai là một cường quốc Châu Á , họ bành trướng theo
chủ thuyết Đại Đông Á , tức Châu Á phải là của người Châu Á mà những kẻ
khác mầu da đều là kẻ xâm lược . Nhật Bản sẽ là nước lãnh đạo
Châu Á đánh đuổi họ .Nhật Bản theo truyền thống dân tộc, điạ lý, có
những nét nổi bật khí nói về đất nước của họ như : là xứ sở Hoa Anh Đào ,
là nước Phù Tang có tinh thần Vỏ Sỉ Đạo cao thượng .Trong trận chiến
Trân Châu Cảng, với một lòng quyết tữ , các chiến sỉ Nhật Bản nhất là
các phi công của máy bay ném bom bổ nhào trước khi ra trận đã vĩnh biệt
vợ con, họ đều quấn khăn tang để tang cho cha mẹ trước như để trả hiếu
cho họ vì sau đó họ sẻ không vế nửa ( đầu bạc tiẻn đầu xanh ). Nhiệm vụ
của các phi công nầy là tìm các mục tiêu quan trọng , chí tử của địch
như các Hàng Không Mẩu Ham , Chiến Hạm Lớn để tấn công . Họ tấn công mà
không hề sợ chết trước bức từng rào lửa đạn dầy đặc phòng không của địch
bắn lên . Họ lái máy bay đâm thẳng vào ống khói các chiến hạm địch
như một quả bom sống, sau đó nổ tung cùng chiến hạm đich để hai bên
cùng chết tương tư như những cuộc đánh bom liều chết của những phần tử
cục đoan Hồi Giáo bây giờ khi đánh vào Toà Nhà Thương Mại Quốc Tế của
Mỷ , hay cuộc ám sát thủ tướng Butto trước đây.
Tinh thần vỏ sỉ đạo của người Nhật dạy rằng danh dự
tổ quốc, cá nhân là cái gì thiêng liêng cao quý phải bỏ mạng sống ra nếu
cần để bảo vệ nó . Người vỏ sỉ đạo chỉ có thể bảo vệ danh dự hay chuộc
lổi bằng cách ngồi xếp bẳng , rút gươm ra tự đâm vào bụng, moi cả ruột
gan ra ngòai cho đến khi ngã chết. Tinh thần vỏ sĩ đạo đó đã ăn său
vào ý thức dân tộc , họ đã làm điều đó , và đó là vũ khí duy nhất mà kẻ
thù không có , một niềm tin là họ sẻ thắng trân khi tấn công một cường
quốc mạnh nhất thế giới, còn sung sức và chưa tham chiến lần nào . Với
quan điểm phưong pháp phòng thủ hữu hiệu nhất là tấn công , Nhật Bản đã
xử dụng chiêu thức Tiên hạ thủ vi cường kết hơp với những yếu tố bất ngờ
Nhật Bản đã làm Mỹ choáng váng, rúng động trước cú " nock out "
bất ngờ, một điều mà họ không tin là Nhật Bản dám làm,
Cay cú trước trân Trân Châu Cảng, người anh cả Mỹ mới
bàng hoàng nhìn lại lực lượng của ta và địch nên dùng sức mạnh hạt nhân
răn đe bằng cách bỏ hai trái bom nguyên tử xuống hai thành phố
Hiroshima và Nagasaki của Nhật ,đập tan chính sách Đại Đông Á ,làm tham
vọng Đế Quốc của Nhật bị phá sản, dẫn đến Nhật Bản phải giải giáp quy
hàng lực lượng Đồng Minh .
Tôi thiết nghĩ, nếu Mỷ không dùng bom nguyên tử ném
xuống hai thành phố lớn cùa Nhật, thì Nhật ngày nay sê là một Đại
Cường Quốc không những của Châu Á mà còn là của cả thế giới , và
biết đâu, nước Việt Nam ta cũng sẽ được hưỡng " sấy " trong chánh
sách Đại Đông Á của Nhật để biến thành một nước cường thịnh vùng Đông
Nam Á mà các thế lực ngoại xâm cũng phải e dè .
Chiến tranh bao giờ cũng để lại nhiều đổ nát và hoang
tàn . Hậu quả của nó thật thảm khốc từ vật chất đến tinh thần của cả
hai bên thắng trận cũng như bại trận. Về vật chất thì có thể khắc phục
được trong vòng vài thế kỷ nhưng khắc phục hậu quả đau thương của lòng
người phải trãi qua nhiều thế hệ . Con người càng văn minh thì hậu quả
chiến tranh càng lớn , thời gian khắc phục càng lâu dài .Nếu trên thế
giới mà loài người cùng chung một thứ tiếng, chung một mầu da,một dòng
máu thì sẽ không có chiến tranh khốc liệt. Bởi vì lúc đó chỉ có một nước
, một quôc gia, tất cả đều là anh em sống chung một đại gia đình, có
mâu thuẩn chăng thì sẽ giải quyết thương lượng chứ không tàn sát lẫn
nhau như bây giờ.
Nhìn lại sự phát triển của các quốc gia trongThế Giới
Sử,sự hình thành của một nước thường gắn liền với ba chữ " bành
trướng,xâm chiếm, tàn ác " . Loài người, các nước nhân danh ai? cái
gì để giết đồng loại ? .Ý thúc hệ ư ? đó chỉ là những lý luận mơ hồ cuả
người xây đựng chủ thuyết ,nó có thể đúng trong thời đại nầy nhưng sai
với thời đại khác , như một nhà triết học đã nói " Chân lý không phải
chỉ có một , bên nầy dãy núi Pyréné là chân lý, còn bên kia thì không
" .Hơn nửa, những người tạo dựng ra chủ thuyết trong thời họ đang sống
không có sựphát triên của nền văn minh như bầy giờ , nên cái nhìn của họ
thiển cận như ếch ngồi đáy giếng thì chân lý phải luôn là cái tay đổi
liên tục điều chỉnh không ngừng . Không ai có thể sống với cái bóng ma
dĩ vãng , cái lý luận lổi thời để nói chuyện ngày nay , mà có nói cũng
chẳng ai tin .Vì những cái phi lý nấp trong cái bóng hữu lý nên những
cuộc chiến tranh liên tiếp xãy ra mà hai chủ thuyết ĐẠI ĐÔNG Á của Nhật
Bản, PHÁT XÍT của ĐỨC hay các chủ thuyết khác cùng chống lại chủ thuyết
TƯ BẢN của các nước Âu và Mỹ Châu .
Chỉ khi hai trái bom nguyên tử của Mỹ thả xuống hai thành phố lớn của
Nhật , những gì thực sự đã và đang xãy ra trên thế giới trước mắt
chúng ta thì lịch sử mới trả lời " là ai thắng ai"một cách chuẩn xác .Tài liệu tham khảo :
1-Trích dẫn từ Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia :
2- At Dawn We Slept . The Untold Story of Pearl Harbor ( Gordon w Prange )
3-Peart Harbor coutdown Admiral James O Richardson ( Skipper Steely )
4- Thế giới Sử
5-- Tài liệu tổng hợp từ VN và nước ngoài
Singapore ngày mồng 8 Tết năm Nhâm Thìn ( nhằm ngày 30/01/2012 ) .
HUY THANH