12/12/12

THAM LUẬN: SỰ XÂM THỰC CỦA PHONG TRÀO VĂN CHƯƠNG LÃNG MẠN PHƯƠNG TÂY VÀO VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM VÀO THẾ KỶ XX NHU THẾ NÀO?

THAM LUẬN:
 
SỰ XÂM THỰC CỦA PHONG TRÀO VĂN CHƯƠNG  LÃNG MẠN PHƯƠNG TÂY VÀO VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM VÀO THẾ KỶ XX NHU THẾ NÀO?

HUY THANH 

1-VÀI NÉT VỀ PHONG TRÀO VĂN CHƯƠNG LẢNG MẠN PHƯƠNG TÂY:
 
Nghĩa đen của từ Lãng mạn: " Lãng" tức sóng nước, chỉ sự rộng lớn mênh mông, còn "Mạn" là sóng từng lớp tràn lên bờ, không bị hạn chế, bởi bất chứ vất cản nào." Lãng Mạn" là sức sóng nước vỗ tràn lên bờ liên tục không ngừng, không bị ràng buộc gì, hết lớp nầy đến lớp khác. Tình cảm của con người trong văn chương như nước cuộn tràn như vậy, tự do bày tỏ, không hạn chế gì hết. Vào thế kỷ XX, ở Phương Tây triết lý La Mã, Hy Lạp đã lùi dần nhường chỗ cho những tư tưởng tự do bộc phát lan rộng như của John Locke, Montesquieu, J.J Roussau. Khuynh hướng của chủ nghĩa tự do lãng mạn nầy là con người phải sống cho chủ nghĩa cá nhân một cách tự do nhiều hơn cho cộng đồng. Phong trào văn chương lãng mạn là một hình thức trong trào lưu tư tưởng mới nầy, nó bộc phát trong văn chương nhiều hơn hết nên được gọi là văn chương lãng mạn. 

2-SỰ HÌNH THÀNH CỦA VĂN CHƯƠNG LÃNG MẠN:

Khởi đầu văn chương lãng mạn xuất hiện tại Pháp thế kỷ 19 , nó đối lập với văn chương cổ điển vốn lạc hậu, nghèo nàn về hình thức lẩn nội dung như Kinh Thư, Anh hùng ca, Kịch cổ điển cổ Thi, nhửng Thi Ca định thể roudeau, sonnet. Sau Cach Mạng 1789, văn chương lãng mạn phát sinh, bùng phát với những rung cảm mới, thiên về cá nhân, về cái " tôi " trong xúc cảm sáng tác. Văn Chương lảng mạn là văn chương nói lên tình cảm của tác giả với chủ đề của mình một cách sâu rộng, toàn diện trong nguồn xúc cảm bất tận tuôn trào, mênh mông không hạn chế gò bó trong lãnh vực nào hết. Văn Chương lãng mạng có những tính chất như sau: 

  2.1- TÍNH CHẤT TƯỞNG TƯỢNG PHONG PHÚ, TÌNH CẢM SÂU RỘNG:
 
Các tác gỉả văn chương lảng mạn viết thiên về sự mơ mộng,trong tình cảm, bi luỵ về cuộc đời một cách say sưa trái hẳn với văn chương cổ điển viết thiên về lý trí tình cảm cộng đồng, gò bó trong tôn giáo, đạo đức

2.2- THIÊN VỀ CÁ NHÂN, CÁI "TÔI "TRONG TÁC PHẨM :

Văn chương lãng mạng viết về tình cảm, về cái tôi một cách tự do, phóng túng, những hỉ nộ ái ố của cuộc đời được khai thác sâu rộng khiến ngươời đọc dễ cảm xúc và đồng cảm tuyệt đối
 
2.3- KHÔNG GÒ BÓ TRONG HÌNH THỨC, NỘI DUNG

Những hình thức, nội dung có tính chất cổ thi xưa như câu cú, vần điệu đều bị phá bỏ, họ viết văn, làm thơ không theo một quy luật nào hết, Nhất là Thơ tự do, muốn viết sao thì viết, vần điiệu không có cũng được

. 2.4-GẮN BÓ VỚI THIÊN NHIÊN

Văn chương cổ điển thiên về những triết lý, lý luận cuộc đời một cách cao siêu nhiên,. thoát tục hay có tính chất tôn giáo ,Còn văn chương lảng mạn đưa con người về với thiên nhiên, thực tế gần gủi với tình cảm con người hơn như ruông đồng,,rừng núi, biển cả .

3-SỰ XÂM THỰC CỦA PHONG TRÀO VĂN CHƯƠNG LÃNG MẠN VÀO VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM

3.1- THỜI KỲ TIỀN XÂM THỰC TRƯỚC THẾ KỶ XX

: A -Tình hình chiến tranh đất nước đã là những đề tài lớn cho những tác phẩm của nhiều tác gỉa Việt Nam viết về văn chương lảng mạn , thời gian nầy ảnh hưỡng của nho giáo Lão Trang vẩn chưa chấm đứt nên trong một số tác phẩm ta thấy vẩn như còn đâu đó những thuyết Nho Giáo như định mệnh bên cạnh cái phóng túng, tự do của đường lối sáng tác lãng mạn mới .Mặt khác, ảnh hưỡng cuả các nhà thơ lớn Trung Hoa như Tô Đông Pha, Lý Bạch,Khuất Nguyên . vẩn còn đối với các nhà thơ văn VN nên tầm sâu rộng của lối viết lãng mạn bị rất nhiều hạn chế .Ở thời diểm nầy các thể thơ song thất lục bát, lục bát , đường luật vẫn còn nhan nhản trên thi văn đàn . .

.B- Những câu thơ tiêu biểu : Thí dụ ,Truyện Kiều cuả Nguyễn Du: " Vầng trăng ai xẻ làm đôi.Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường " hay Qua Đèo Ngang cuả Bà Huyện Thanh Quan : " Dừng chân đứng lại trời non nước. Một mảnh tình riêng ta với ta " hay Tự Tình của Hố xuân Hương " Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn. Trớ cái hồng nhan với nước non "

3.2 THỜI KỲ HẬU XÂM THỰC TRONG THẾ KỶ XX
 
A- Khi Pháp thực hiện ché độ thuộc địa với nước ta, tư tửơng, văn hoá , đường lối sáng tác về hình thức , nội dung đã ảnh hưỡng sâu rộng đến các nhà văn, thi văn sĩ VN. Thực hiện chính sách làm bạc nhược về tư tưởng để thanh niên VN không còn ý chí chống đối , giải phóng đất nước, những tác phẩm cực kỳ ủy mị của Pháp đã được dịch phổ biên trong quần chúng như Trà Hoa Nữ ( La Dame aux Camélias ) của A Dumas hay Tuyết Hồng Lệ Sử của Từ trẫm Á.  

B -Các nhà thơ Pháp đã ảnh hưởng lơn đối với các nhà thơ, nhà văn Việt Nam theo khuynh hướng Tây Học thời đó như J.J Rousseau, Chataeubrian, La Martine, Victor Hugo, Alfred de Musset Thí dụ: những câu thơ tiêu biểu: như " Gió Thu " của Tản Đà: "Trận gió thu phong rụng lá vàng. Lá rơi hàng xóm gió bay sang. Vàng bay mấy lá năm già nửa Hờ hững ai xuôi thiếp phụ chàng: hay" Giọt lệ Thu "của Tương Phố: " Trời thu ảm đạm một mầu. Gió thu hiu hắt như sầu lòng em.Trăng thu bóng ngã bên thềm.Tình thu ai để duyên em bẽ bàng"

C- Năm 1932 Tự Lực Văn Đoàn ra đời đã dấy lên một phong trào sáng tác cực thinh Thơ mới, văn chương mới lãng mạn sâu rộng trên thi văn đàn.Việt Nam. Những tác giả nổi tiếng cho đến hôm nay như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thach Lam, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận ..v.. v..là những nhà tiên phong rầm rộ trong phong trào làm thơ mới, thơ tự do, viết văn chương lãng mạn trên thi văn đàn Việt Nam Thí dụ bài "Yêu" của Xuân Diệu " Yêu là chét trong lòng một ít. Vì mấy khi yêu ma chắc được yêu. Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu, Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết:" hay" Thú Đau Thương" của Lưu trọng Lư " Tình đã len trong mầu nắng mới.Lòng anh buồn vời vợi em ơi Niềm yêu rung động đôi môi. Tình đầy khôn lựa được lời thắm tươi " hay" Hai sắc hoa Ti Gôn "của TTKH: Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời. Ai ân lạt lẽo của chồng tôi, Mà từng thu chết từng thu chết.. Vẩn giấu trong tim một bóng người " hay" Nhạc Sầu" cuả Huy Cận: " Ai chết đó nhạc buồn chi lắm thế, Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường " v..v.. Còn rất nhiều nhà văn, nhà thơ khàc trong hay ngoài Tự Lực Văn Đoàn như Thâm Tâm, Vủ Hoàng Chương. Hàn mặc Tử ,Anh Thơ, Bích Khê, Nguyễn Bính, Ché Lan Viên, Hồ Dzếnh, Phan Khôi, Vũ Đình Liên, Mai Đình, Nguyễn nhược Pháp, Quách Tấn,, Tản Đà . Tế Hanh ,, Trần huyền Trân, Tú Mở, Văn Cao. Yến Lan ..v.v. là những nhà thơ, nhà văn, nhạc sỉ hạt giống trong phong trào viết thơ văn mới lãng mạn với những bài thơ, tác phẩm văn chương bất hủ để trong nền văn học Viêt Nam đến ngày hôm nay Tên tuổi của họ hầu như gắn bó, quen thuộc với nhiều thế hệ quan tâm đến nền văn học nước nhà . Về tác phẩm văn chương mang tính chất lãng mạn , phải kể đến quyển " Tó Tâm "của Song An Hòàng ngọc Phách hay "Hồn Bướm Mơ Tiên " của Khái Hưng . Truyện" Tố Tâm" kể lai chuyện tình cuả chàng sinh viên Lê thanh Vân bút hiệu Đạm Thũy với cô Nguyể thị Xuân Lan bút hiệu Tố Tâm, hai người yêu nhau nhưng không thành duyên nợ , sau Tố Tâm đi lấy chồng chỉ hơn một thàng thì nàng chết. Đây là cuốn tiểu thuyết lảng mạn gốii đầu cho những thanh niên thiếu nữ yêu văn chương thời đó, Cái chết của Tố Tâm cãm động như cái chết của Elvire trong tac phẩm của Lamartine. Còn tiểu thuyết" Hồn Bướm Mơ Tiên" thì nói về cuộc tình của chàng sinh viên tên Ngọc với một chú tiểu la gái giả trai tên Lan, họ yêu nhau trong tâm hồn bằng mối tình trong sạch. thật lảng mạn vì cả hai còn khỏang cách là đạo và đời.
Mặc dù những người viết và làm thơ mới, văn chương lãng mạn đứng cùng một chiến tuyến, nhưng về đạo đúc thì họ cũng có những cái không đồng khuynh hướng , thâm chí còn chống đôi nhau qua tác phẩm .Phe của Tự Lực Văn Đoàn thì chủ trương cải cách toàn diện ,từ ý văn, thơ về hình thức lẫn nội dung .Còn về đạo đức thì họ chủ trương phá vỡ tư tưởng Nho Gíáo của Khổng Tữ,, giải phóng người phụ nử ra khỏi " Tứ Đức Tam Tòng " , điển hình là cuốn tiểu thuyết " Đoạn Tuyệt" của Nhất Linh mà nhân vật cô Loan là tiêu biểu .Trái lại, mặc dù cùng một phong trào, thơ mới, văn chương lãng mạn nhưng một số tác giả vẫn còn muốn giử lai phần nào cái giềng mối đạo đức Khổng Manh như tác phẩm " Cô Giáo Minh " của Nguyễn Công Hoan.

. D- BÌNH LUẬN ENTRY:
Phải công nhận rằng phong trào văn chương lãng mạn của Tây Phương đã thổi một luồng sinh khí mới tòan diện vào những tác phẩm văn học cũa Việt Nam vào thế kỷ XX. Nó là cuộc cách mang Văn Học thực sự sâu sắc và triệt để nhất giải phóng những khuynh hướng bế tắc, cằn cỗi cũa đường lối sáng tác cũ nặng nề tính cách nho giáo, tôn giáo hay cổ thi. Nó đã đem con người tứ một chốn vô minh, sống trong mộng mị đầy ảo tưởng để trở về thực tại, đối diện những những bi lụy trầm kha hằng ngày của cuộc sống. Hơn lúc nào hết, cái "Tôi" từ bản ngã con người đã sống dậy, thoát  thai,  can đảm đối diện với nõi khổ đau của kiếp người để bật thành những đồng cảm tuyệt vời giữa người viết và người đọc trong cái giao hưỡng mênh mông của tình cảm. Cái "Tôi" đó kéo con người sống một cách đạt thân, hiện thực trong một bối cảnh đời sống vôn không dung dị về bản sắc như hôm nay .Những gò bó, rào cản của khuynh hướng sáng tác cũ chỉ làm cho con người và tác phẩm bị vong thân trâm trọng, tự lừa dối mình, và dối người khiến tác phẩm càng ngày càng xa rời quần chúng, đi vào ảo tưởng mịt mờ, lạc loài trong thế kỷ.
Tôi là một người làm Thơ mới, một người viết văn trong khuynh hướng lãng mạn, một kẻ hậu sinh, một cây bút "tài tử" với những kiến thức hạn hẹp về văn học, nhưng vẫn đủ kinh nghiệm để nhận thức rằng hãy để sáng tác văn học lãng mạn bay nhảy, tự do vẫy vùng trong khỏang trời bao la của nó vì chính ở nơi đó, nghệ thuật mới đích thực là nghệ thuật, vì nghệ thuật. Còn níu kéo văn học vào những khuyng hướng giáo điều, những định kiến hướng dẫn, gợi ý thì nó sẽ đẻ ra những tác phẩm non trẻ, chết yếu, xa rời tầm nhận thức của những độc gỉa chân chính có tâm huyết với tiền đồ văn học nước nhà, vô  tình đã kéo văn chương Việt Nam trở lại thời kỳ " đồ đá ".
HUY THANH

Photobucket