11/12/12

THAM LUẬN: CUỘC ĐỜI NHÀ VUA YÊU NƯƠC HÀM NGHI VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG

THAM KHẢO
CUỘC ĐỜI NHÀ VUA YÊU NƯỚC HÀM NGHI VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
HUY THANH
Khi quân Pháp sang xâm lược nước ta thì chúng gặp rất nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân đứng lên đánh đuổi để dành lại độc lập cho nước nhà. Thành phấn nổi dậy rất nhiều trong từng lớp nhân dân: từ dân chúng, phú hộ cho đến quan, vua. Tuy nhiên, thành phần quan lại, vua Chúa, nói chung là thành phần cai trị đất nước thì rất ít vì phần đông họ quen sống vinh hoa phú quý, nay không thể chịu cực khổ, cái chết lúc nào cũng đến để đi kháng chiến chống kẻ thù. Thậm chí họ còn cam tâm làm tay sai cho ngoai bang để được kẻ thù ban phát địa vị, tiền bạc, danh vọng hay bán nước để cầu vinh. Có một vị vua đã từ bỏ ngai vàng, địa vị, cung điện, lầu son ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tồ Quốc, lập căn cứ kháng chiến, kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp gìành lại độc lập cho nước nhà. Đó là vua Hàm Nghi, với lời hiệu triệu nhân dân nổi dậy bằng lời Hịch Cần Vương. Ta hãy cùng tham khảo cuộc đời sự nghiệp của vì Vua yếu nước nầy.

1- VUA HÀM NGHI   ( 1871-1943) :
     1.1 : NHỮNG NGÀY TẠI NGÔI :
Vua Hàm Nghi tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Lịch sinh ngày 3/8/1871, là nhà vua thứ 8 của triều  đình nhà Nguyễn. Ông là vị vua có tinh thần yêu nước, có tinh thấn bài ngọai chống Pháp như các vua trước đây là Thành Thái và Duy Tân ( ông là em của vua Kiến Phúc).
Năm 1883 vua Tự Đức băng hà, sau đó triều đình chọn lên liên tiếp các vua như  Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, nhưng mấy vì vua sau nầy chủ trương không bài Pháp, chủ hoà; nói một cách khác là chịu sự bảo hộ của ngoại bang. Lúc đó quyền bính  lại nằm trong tay hai quan phụ chính triều đình là Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết là nhóm chủ chiến, bài ngọai chống Pháp triệt để  (Tôn thất Thuyết lúc đó làm Thượng Thư Bộ Binh tức là ngang hàng Bộ Trưởng Quốc Phòng bây giờ ). Hai ông tìm cách phò một nhà vua khác có tinh thần yêu nước chống Pháp triệt để và người hai ông chọn là thái tử Ưng Lịch tức vua Hàm Nghi sau nầy.
Ưng Lịch từ thuở nhỏ đã rời cung điện ,thích sống hoà mình vào dân giã, ông theo học sách thánh hiền, gần gủi với nhân dân và những người cùng khổ nên có tấm lòng yêu dân tộc,yêu đất nước nồng nàn. Ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân  (2/8/1884) vua Kiến Phúc đột ngột băng hà,  Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết  cho người mang kiệu rước Ưng Lịch về Hoàng Thành Huế tôn lên làm vua lấy hiệu là Hàm Nghi.
Pháp được tin Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết tự ý lập vua khác mà không hỏi ý kiến mình ( Pháp vẫn tự cho mình là đang bảo hộ triều đình Huế ) nên khâm sứ Pháp Pierre de Paul  gởi công văn khiển trách Tường và Thuyết .Thấy tình hình đang bất lợi vì vua Hàm Nghi mới lên ngôi, nên hai ông tạm hoà huỡn nhưọng bộ, bèn viết thư bằng chữ Nho mời phái đoàn Pháp vào tham khảo tình hình triều đình sau khi có vua mới . Nhưng thực tế  ngày đó hai ông lại tổ chức lễ tôn vương tại điện Thái Hoà, và phái đoàn Pháp khi vào, chẳng khác nào là quan khách mời dự, chấp nhận sự lên ngôi của vua Hàm Nghi. Đây là một thủ thuật chính trị rất khéo của Tôn thất Thuyết.
Ngày 17/8/1884 phái đoàn Pháp gồm đại tá Guerrie, khâm sứ Rheinart, thuyền trưõng tầu Wallarrmé, cùng185 sĩ quan binh sĩ vào Hoàng Thành Huế để "tham dự lễ tấn phong" nhà vua. Khi vào cổng Ngọ Môn, thì Phái đoàn Pháp định vào cổng chính, nhưngTôn thất Thuyết không cho vì theo luật VN chỉ có vua mới được vào cổng chính Ngọ Môn. Sau một hồi thương thuyết, phái đoàn Pháp và triều đình thỏa thuận chỉ cho Đại Tá, Khâm Sứ, Thuyền Trưởng vào cổng chính, còn tất cả thì phải vào cổng phụ. Sau khi tan lễ,  ôn thất Thuyết ngầm ra lệnh cho người khoá cổng chính, nên phái đoàn Pháp từ Đại Tá Guerrie,Khâm Sứ Rheinart, Thuyền Trưởng Wallarrmé  đành phải đi ra bằng cổng phụ. Đây là một thắng lợi về ngoại giao của Tôn Thât Thuyết  để bảo vệ chủ quyền của triều đình .Về việc nầy Marcel Gautier đã viết như sau:      

"Vua Hàm Nghi đã giữ được tính chất thiêng liêng đối với thần dân mình. Vô tình vị vua trẻ tuổi đã làm một việc có ảnh hưởng vang dội khắp nước: với ý chí cương quyết giữ độc lập và dù người Pháp có đóng quân tại Huế, triều đình An Nam vẫn biểu dương một thái độ không hèn. Thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra. Hội đồng ấy rất có lý mà tin chắc rằng dân chúng trông vào thái độ của nhà vua để noi theo, xem thái độ ấy như mệnh lệnh chống lại người Pháp dù không nói ra bằng lời..."
Năm sau 1885, Thống tướng de Courcy được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của mình gồm 500 người đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách nhà vua . Triều đình Huế yêu cầu để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đứng với nghi thức triều đình, nhưng de Courcy nhất định không chịu.
    1.2 - KHÁNG CHIẾN :
Thấy không thề nhẩn nhục được nửa đêm 22 rạng 23 tháng 4 Âm Lịch ( tức ngày 5 và 6 tháng 7 năm 1885 ) Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công vào đồn quân Pháp ở đồn Mang Cá,, trân đánh kéo dài đến sáng thì Pháp có viện bịnh, trong đánh ra,ngoài đánh vào bao vây quân ta vào giữa nên quân ta thua.Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết vôi phò vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành . Khi chạy giặc,vua Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi tới thành Quảng Trị để lánh nạn. Chiều ngày 6 tháng 7 thì cả đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó Nguyễn văn Tường lại ra đầu hàng với quân Pháp. Tướng de Courcy giao cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua về. Nguyễn Văn Tường  bèn viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng ông Tôn Thất Thuyết chặn thư không cho vua biết. Hết hạn hai tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de Courcy đày ra Côn Đảo, sau đó đưa tới đảo Tahiti ở Thái Bình Dương. Một thời gian sau Nguyễn Văn Tường qua đời, xác được đưa về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7 theo đề nghị của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở. Vua Hàm Nghi ở Tân Sở rồi về vùng Quảng Bình Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần Vương, kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới đất Lào cũng như trong vùng Hà Tĩnh , Quảng Bình đã cho Hàm Nghi thấy được vai trò của bản thân mình trong lãnh đạo cuộc kháng chiến "Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên. Dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống hịch Cần vương trong đó có một lần gửi thư cầu viện Tổng đốc Vân-Quý của triều Mãn Thanh và rất nhiều chỉ dụ khác kêu gọi các quan lại, lãnh tụ của phong trào nổi lên chống Pháp. Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia... Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hành kháng chiến .
Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và ba bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người. Tại căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử hai con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ,.Đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp trong vùng. Tháng 9 năm 1888, suất đội Nguyễn Đình Tình ra đầu thú với Pháp tại đồn Mang Cá. Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9 1888 vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi đó, vua mới 17 tuổi, chống Pháp được ba năm. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng:
"Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây".
Đêm hôm đó, từ tỉnh Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê  sau cùng đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng 11 năm 1888. Quân Pháp ở đồn  tổ chức chào đón vua rất long trọng nhưng vua giả bộ điên, đã tỏ ra không hiểu, không nhận mình là Hàm Nghi. Viên trung uý chỉ huy quân đội Bonnefoy đã chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua giã vờ ném lá thư xuống bàn và làm như không có can hệ gì đến mình. Viên đề đốc Thanh Thuỷ là Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như không hay biết. Nhưng khi thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua lại đứng dậy vái chào. Mọi việc đổ bể, đến lúc đó thì người Pháp mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi  vào Đồng Hới và tới cửa Thuận An ngày 22 tháng 11 năm 1888. Lúc này, triều đình Huế đã biết tin Hàm Nghi bị bắt, vua Đồng Khánh sai quan lại Thừa Thiên và bộ binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị kích động khi thấy mặt vị vua kháng chiến nên Pháp đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về kinh e có điều bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực người Pháp đã có quyết định dứt khoát với vị vua kháng chiến này là đày sang xứ Algérie ở Bắc Phi. Rheinart đã báo cho ông biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp: "Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa", rồi ông cáo từ về phòng riêng.


Đám cưới cựu hoàng Hàm Nghi
tạiAlgérie    
  1.3-  NHỮNG NGÀY SỐNG LƯU VONG:
Vào 4 giờ sáng ngày 13 tháng 12 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi Algérie. ( Bắc Phi ) .Trước phút rời xa quê hương, nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên đã oà khóc.. Do không quen đi trên biển, nhà vua bị say sóng  nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán. Chiều chủ nhật, 13 tháng 1 năm 1889, cựu hoàng Hàm Nghi đến thủ đô Alger của xứ Algérie. Lúc này nhà vua vừa bước qua tuổi 18. Mười ngày đầu, cựu hoàng Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la Régence (Tòa nhiếp chính). Sau đó, ông được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger 5 cây số. Ngày 24 tháng 1, Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi cùng ăn cơm gia đình.  Mấy  ngày sau, qua Toàn quyền Tirman báo vua Hàm Nghi biết thân mẫu là bà Phan Thị Nhàn đã qua đời  vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại Huế.
Trong mười tháng tiếp đó, cựu hoàng Hàm Nghi nhất định không chịu học tiếng Pháp vì ông cho đó là thứ tiếng của dân tộc xâm lược nước mình và vẫn dùng khăn đóng, áo dài theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn tên Thanh. Nhưng về sau, thấy người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ tháng 11 năm 1889 ông bắt đầu  chịu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp như người bản xứ. Cựu hoàng Hàm Nghi cũng giao du cùng những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899 ông có sang thăm Paris và đến xem một triển lãm của danh họa Paul Gauguin, về sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh hưởng bởi phong cách của Gauguin. Hơn 100 năm sau, bức tranh Déclin du jour (Chiều tà) của cựu hoàng phát hiện được dưới nghệ danh Xuân Tử khi bán đấu giá ở Paris ngày 24 tháng 11 năm 2010 bán được với giá 8.800 eurro
Năm 1904, cựu hoàng Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884, mất năm 1974), con gái của ông Laloe chánh án tòa Thượng phẩm Alger. Đám cưới của họ trở thành một sự kiện văn hóa của thủ đô Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có ba người con:  1-Công chúa Như Mai sinh năm 1905 (mất năm 1999).   2- Công chúa Như Lý (Như Luân) sinh năm 1908 (mất năm 2005).  3- Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910 (mất năm 1990).  Công chúa Như Mai tốt nghiệp kỹ sư canh nông. Công chúa Như Luân tốt nghiệp tiến sĩ y khoa và lập gia đình với Công tước François Barthomivat de la Besse.
     1.4- VỀ VỚI CÁT BỤI :
Ngày 4 tháng 1 năm 1943, cựu hoàng Hàm Nghi mất vì bệnh ung thư dạ dày tại biệt thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn cất ở Sarlat (Sarlat-la-Canéda), vùng Aquitaine, nước Pháp. Trên mộ của vua Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất năm 1944. Ông ra đi mang theo nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí. Vì có tư tưởng chống Pháp, vua Hàm Nghi, cùng với các vua Thành Thái, Duy Tân, được xem là ba vị vua yêu nước của Việt Nam thời Pháp thuộc. Năm 2008, hài cốt vua Hàm Nghi được đưa về cải táng tại Huế. Năm 2009, ông được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc đưa về thờ tại Thế Tổ Miếu (hoàng thành Huế)
Hiện nay, niên hiệu của nhà vua  Hàm Nghi, tên Tôn thất Đạm,Tôn thất Thiệp ,Tôn thất Thuyết đều có tên đường tai quận 1 Saigon, một sự tri ân xứng đáng đối với những người đã hy sinh vì sự tồn vong của dân tộc.
2-  BÌNH LUẬN
Người ta ai cũng chỉ sống có một đời,những bậc hiền tài,quân tử thường hiến cuộc đời mình cho những lý tuỡng cao cả, những mục đích vì nhân dân hay nhân loại, vì quê hương hay nòi giống  .Họ không ngần ngại từ bỏ tất cả sự sung sướng của bản thân để dấn thân vào nổi gian khổ mà mục đích chính là đem lại hanh phúc cho tất cả mọi người. Vua Hàm Nghi là một trong những người như thế . Nếu Hàm Nghi là một con người cùng khổ trong lớp người nghèo đói  phải cầm súng gươm để trước là giành lại miếng cơm manh áo cho bản thân và gia đình mình, sau mới nói đến tổ quốc quê hương thì tôi sẽ không viết bài nầy cho người anh hùng Nguyễn Phúc Ưng Lich. Đằng nầy ngài là một vi Vua tại vị, có uy quyền, được triều đình ủng hộ, sống giàu sang sung sướng nhưng ngài đã không để cái "tôi" của mình trên cái "tôi" của thiên hạ,để cái "tiểu ngã" nhỏ nhoi của mình trên cái "đại ngã "lớn lao của dân tộc. Ngài đã dấn thân vào đại cuộc, từ bỏ cả ngai vàng, một đia vị mà ai cũng ao ước , vì nó mà lịch sử đã có biết bao người đi vào con đường tội lỗi: cha giết con, vợ giết chồng, bạn bè phản bội giết nhau,xương máu hận thù vì danh vọng đầy những trang lịch sử. Việc làm của Vua Hàm Nghi  thật đáng khâm phục, là một tấm gương soi sáng cho hậu thế, nó chứng minh rằng ở bất cứ thời đại nào, dân tộc Việt Nam khi quốc phá gia vong đều xuất hiện những anh hùng, họ ở bất cứ giai cấp nào trong nước từ bậc quyền quý cao sang  nhất cho đến lớp người nghèo khổ nhất, chứ không phải kháng chiến chỉ dành cho giai cấp cùng khổ mà thôi.


咸宜
Hoàng đế Việt Nam (chi tiết...)

Chân dung thông dụng của Hoàng đế Hàm Nghi.
                                                      
Chân dung vua Hàm Nghi
Tài liệu tham khảo: Tổng hơp từ nhiều nguồn
HUY THANH