THAM KHẢO
CUỘC ĐỜI NHÀ VUA YÊU NƯỚC HÀM NGHI VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
HUY THANH
Khi quân Pháp sang xâm lược nước ta thì chúng gặp rất
nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân đứng lên đánh đuổi để dành lại độc lập
cho nước nhà. Thành phấn nổi dậy rất nhiều trong từng lớp nhân dân: từ
dân chúng, phú hộ cho đến quan, vua. Tuy nhiên, thành phần quan lại, vua
Chúa, nói chung là thành phần cai trị đất nước thì rất ít vì phần đông
họ quen sống vinh hoa phú quý, nay không thể chịu cực khổ, cái chết lúc
nào cũng đến để đi kháng chiến chống kẻ thù. Thậm chí họ còn cam
tâm làm tay sai cho ngoai bang để được kẻ thù ban phát địa vị, tiền
bạc, danh vọng hay bán nước để cầu vinh. Có một vị vua đã từ bỏ ngai
vàng, địa vị, cung điện, lầu son ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của
Tồ Quốc, lập căn cứ kháng chiến, kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp
gìành lại độc lập cho nước nhà. Đó là vua Hàm Nghi, với lời hiệu
triệu nhân dân nổi dậy bằng lời Hịch Cần Vương. Ta hãy cùng tham khảo
cuộc đời sự nghiệp của vì Vua yếu nước nầy.
1- VUA HÀM NGHI ( 1871-1943) :
1.1 : NHỮNG NGÀY TẠI NGÔI :
Vua Hàm Nghi tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Lịch sinh ngày
3/8/1871, là nhà vua thứ 8 của triều đình nhà Nguyễn. Ông là vị vua có
tinh thần yêu nước, có tinh thấn bài ngọai chống Pháp như các
vua trước đây là Thành Thái và Duy Tân ( ông là em của vua Kiến Phúc).
Năm 1883 vua Tự Đức băng hà, sau đó triều đình chọn
lên liên tiếp các vua như Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, nhưng mấy vì
vua sau nầy chủ trương không bài Pháp, chủ hoà; nói một cách khác là chịu
sự bảo hộ của ngoại bang. Lúc đó quyền bính lại nằm trong tay hai quan
phụ chính triều đình là Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết là nhóm chủ
chiến, bài ngọai chống Pháp triệt để (Tôn thất Thuyết lúc đó làm
Thượng Thư Bộ Binh tức là ngang hàng Bộ Trưởng Quốc Phòng bây giờ ).
Hai ông tìm cách phò một nhà vua khác có tinh thần yêu nước chống Pháp
triệt để và người hai ông chọn là thái tử Ưng Lịch tức vua Hàm Nghi sau
nầy.
Ưng Lịch từ thuở nhỏ đã rời cung điện ,thích sống hoà
mình vào dân giã, ông theo học sách thánh hiền, gần gủi với nhân dân và
những người cùng khổ nên có tấm lòng yêu dân tộc,yêu đất nước nồng nàn.
Ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân (2/8/1884) vua Kiến Phúc đột ngột băng
hà, Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết cho người mang kiệu rước Ưng
Lịch về Hoàng Thành Huế tôn lên làm vua lấy hiệu là Hàm Nghi.
Pháp được tin Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết
tự ý lập vua khác mà không hỏi ý kiến mình ( Pháp vẫn tự cho mình
là đang bảo hộ triều đình Huế ) nên khâm sứ Pháp Pierre de Paul gởi
công văn khiển trách Tường và Thuyết .Thấy tình hình đang bất lợi vì vua
Hàm Nghi mới lên ngôi, nên hai ông tạm hoà huỡn nhưọng bộ, bèn viết thư
bằng chữ Nho mời phái đoàn Pháp vào tham khảo tình hình triều đình sau
khi có vua mới . Nhưng thực tế ngày đó hai ông lại tổ chức lễ tôn vương
tại điện Thái Hoà, và phái đoàn Pháp khi vào, chẳng khác nào là quan
khách mời dự, chấp nhận sự lên ngôi của vua Hàm Nghi. Đây là một thủ
thuật chính trị rất khéo của Tôn thất Thuyết.
Ngày 17/8/1884 phái đoàn Pháp gồm đại tá Guerrie, khâm
sứ Rheinart, thuyền trưõng tầu Wallarrmé, cùng185 sĩ quan binh sĩ vào
Hoàng Thành Huế để "tham dự lễ tấn phong" nhà vua. Khi vào cổng Ngọ
Môn, thì Phái đoàn Pháp định vào cổng chính, nhưngTôn thất Thuyết không
cho vì theo luật VN chỉ có vua mới được vào cổng chính Ngọ Môn. Sau
một hồi thương thuyết, phái đoàn Pháp và triều đình thỏa thuận chỉ
cho Đại Tá, Khâm Sứ, Thuyền Trưởng vào cổng chính, còn tất cả thì phải
vào cổng phụ. Sau khi tan lễ, ôn thất Thuyết ngầm ra lệnh cho người khoá
cổng chính, nên phái đoàn Pháp từ Đại Tá Guerrie,Khâm Sứ Rheinart, Thuyền Trưởng Wallarrmé đành phải đi ra bằng cổng phụ. Đây là một
thắng lợi về ngoại giao của Tôn Thât Thuyết để bảo vệ chủ quyền của
triều đình .Về việc nầy Marcel Gautier đã viết như sau:
"Vua Hàm Nghi đã giữ được tính chất
thiêng liêng đối với thần dân mình. Vô tình vị vua trẻ tuổi đã làm một
việc có ảnh hưởng vang dội khắp nước: với ý chí cương quyết giữ độc lập
và dù người Pháp có đóng quân tại Huế, triều đình An Nam vẫn biểu dương
một thái độ không hèn. Thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra. Hội đồng
ấy rất có lý mà tin chắc rằng dân chúng trông vào thái độ của nhà vua để
noi theo, xem thái độ ấy như mệnh lệnh chống lại người Pháp dù không
nói ra bằng lời..."
|
” |
Năm sau 1885, Thống tướng
de Courcy được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để phụ lực vào việc đặt
nền bảo hộ. Tướng de Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại
muốn là toàn thể binh lính của mình gồm 500 người đi vào cửa chánh là
cửa dành riêng cho đại khách nhà vua . Triều đình Huế yêu cầu để quân
lính đi cửa hai bên, chỉ có các bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đứng
với nghi thức triều đình, nhưng de Courcy nhất định không chịu.
1.2 - KHÁNG CHIẾN :
Thấy không thề nhẩn nhục được nửa đêm 22 rạng 23
tháng 4 Âm Lịch ( tức ngày 5 và 6 tháng 7 năm 1885 ) Nguyễn văn Tường và
Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công vào đồn quân Pháp ở đồn Mang Cá,, trân
đánh kéo dài đến sáng thì Pháp có viện bịnh, trong đánh ra,ngoài đánh
vào bao vây quân ta vào giữa nên quân ta thua.Nguyễn văn Tường và Tôn
Thất Thuyết vôi phò vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành . Khi chạy giặc,vua
Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập nhiều lần
vào thành kiệu rất đau, sau cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng cho
lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi tới thành Quảng
Trị để lánh nạn. Chiều ngày 6 tháng 7 thì cả đoàn mới tới Quảng Trị.
Nhưng sau đó Nguyễn văn Tường lại ra đầu hàng với quân Pháp. Tướng de
Courcy giao cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua về.
Nguyễn Văn Tường bèn viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng ông
Tôn Thất Thuyết chặn thư không cho vua biết. Hết hạn hai tháng, cả gia
đình Nguyễn Văn Tường bị de Courcy đày ra Côn Đảo, sau đó đưa tới đảo
Tahiti ở Thái Bình Dương. Một thời gian sau Nguyễn Văn Tường qua đời,
xác được đưa về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7 theo đề nghị của Tôn Thất
Thuyết, vua Hàm Nghi từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở. Vua Hàm Nghi
ở Tân Sở rồi về vùng Quảng Bình Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ
ải vì phải luồn lách giữa núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa
muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng
luôn đe dọa. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần Vương, kêu gọi
sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở
giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng bào các địa phương từ Quảng Trị
qua tới đất Lào cũng như trong vùng Hà Tĩnh , Quảng Bình đã cho Hàm
Nghi thấy được vai trò của bản thân mình trong lãnh đạo cuộc kháng
chiến "Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên.
Dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng
không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống hịch Cần vương trong đó có một lần
gửi thư cầu viện Tổng đốc Vân-Quý của triều Mãn Thanh và rất nhiều chỉ
dụ khác kêu gọi các quan lại, lãnh tụ của phong trào nổi lên chống Pháp.
Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập
quốc gia... Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi
của ông vua xuất hành kháng chiến .
Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua
anh Đồng Khánh và ba bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về
nhưng ông khẳng khái từ chối. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người.
Tại căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn
Thất Thuyết cử hai con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo
vệ,.Đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực
lượng Pháp trong vùng. Tháng 9 năm 1888, suất đội Nguyễn Đình Tình ra
đầu thú với Pháp tại đồn Mang Cá. Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương
Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình
nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9
1888 vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi
đó, vua mới 17 tuổi, chống Pháp được ba năm. Nhà vua đã chỉ thẳng vào
mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng:
- "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây".
Đêm hôm đó, từ tỉnh Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang
vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê sau
cùng đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng 11 năm 1888. Quân
Pháp ở đồn tổ chức chào đón vua rất long trọng nhưng vua giả bộ điên, đã tỏ ra không hiểu, không nhận mình là Hàm Nghi. Viên trung uý chỉ huy
quân đội Bonnefoy đã chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho vua Hàm
Nghi xem nhưng nhà vua giã vờ ném lá thư xuống bàn và làm như không có
can hệ gì đến mình. Viên đề đốc Thanh Thuỷ là Nguyễn Hữu Viết được Pháp
cử tới để thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như không hay biết. Nhưng
khi thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua lại đứng dậy vái
chào. Mọi việc đổ bể, đến lúc đó thì người Pháp mới yên trí đó là vua
Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi vào Đồng Hới và
tới cửa Thuận An ngày 22 tháng 11 năm 1888. Lúc này, triều đình Huế đã
biết tin Hàm Nghi bị bắt, vua Đồng Khánh sai quan lại Thừa Thiên và bộ
binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị kích động
khi thấy mặt vị vua kháng chiến nên Pháp đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua
Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về kinh e có điều bất tiện, cần
phải đưa đi tĩnh dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực người Pháp đã có
quyết định dứt khoát với vị vua kháng chiến này là đày sang xứ Algérie ở
Bắc Phi. Rheinart đã báo cho ông biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà
vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi
đáp: "Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa", rồi ông cáo từ về phòng riêng.
tạiAlgérie
1.3- NHỮNG NGÀY SỐNG LƯU VONG:
Vào 4 giờ sáng ngày 13 tháng 12 năm 1888, vua Hàm Nghi
bị đưa xuống tàu đi Algérie. ( Bắc Phi ) .Trước phút rời xa quê hương,
nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm riêng và vận
nước nên đã oà khóc.. Do không quen đi trên biển, nhà vua bị say sóng
nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán. Chiều chủ nhật, 13
tháng 1 năm 1889, cựu hoàng Hàm Nghi đến thủ đô Alger của xứ Algérie.
Lúc này nhà vua vừa bước qua tuổi 18. Mười ngày đầu, cựu hoàng Hàm Nghi
tạm trú tại L'hôtel de la Régence (Tòa nhiếp chính). Sau đó, ông được
chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) thuộc làng El Biar,
cách Alger 5 cây số. Ngày 24 tháng 1, Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp
kiến và mời Hàm Nghi cùng ăn cơm gia đình. Mấy ngày sau, qua Toàn
quyền Tirman báo vua Hàm Nghi biết thân mẫu là bà Phan Thị Nhàn
đã qua đời vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại Huế.
Trong mười tháng tiếp đó, cựu hoàng Hàm Nghi nhất định
không chịu học tiếng Pháp vì ông cho đó là thứ tiếng của dân tộc xâm
lược nước mình và vẫn dùng khăn đóng, áo dài theo nếp cũ ở quê hương.
Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn tên Thanh. Nhưng về sau, thấy
người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ
tháng 11 năm 1889 ông bắt đầu chịu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm
Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp như người bản xứ. Cựu hoàng Hàm Nghi
cũng giao du cùng những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899 ông có sang
thăm Paris và đến xem một triển lãm của danh họa Paul Gauguin, về sau
khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh hưởng bởi phong cách của Gauguin.
Hơn 100 năm sau, bức tranh Déclin du jour (Chiều tà) của cựu
hoàng phát hiện được dưới nghệ danh Xuân Tử khi bán đấu giá ở Paris ngày
24 tháng 11 năm 2010 bán được với giá 8.800 eurro
Năm 1904, cựu hoàng Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle
Laloe (sinh năm 1884, mất năm 1974), con gái của ông Laloe chánh án tòa
Thượng phẩm Alger. Đám cưới của họ trở thành một sự kiện văn hóa của thủ
đô Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có ba người con: 1-Công chúa
Như Mai sinh năm 1905 (mất năm 1999). 2- Công chúa Như Lý (Như Luân)
sinh năm 1908 (mất năm 2005). 3- Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910 (mất
năm 1990). Công chúa Như Mai tốt nghiệp kỹ sư canh nông. Công chúa Như
Luân tốt nghiệp tiến sĩ y khoa và lập gia đình với Công tước François
Barthomivat de la Besse.
1.4- VỀ VỚI CÁT BỤI :
Ngày 4 tháng 1 năm 1943, cựu hoàng Hàm Nghi mất vì
bệnh ung thư dạ dày tại biệt thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn
cất ở Sarlat (Sarlat-la-Canéda), vùng Aquitaine, nước Pháp. Trên mộ của
vua Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất năm 1944. Ông ra đi mang
theo nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí. Vì có tư
tưởng chống Pháp, vua Hàm Nghi, cùng với các vua Thành Thái, Duy Tân,
được xem là ba vị vua yêu nước của Việt Nam thời Pháp thuộc. Năm 2008,
hài cốt vua Hàm Nghi được đưa về cải táng tại Huế. Năm 2009, ông được
hội đồng Nguyễn Phúc Tộc đưa về thờ tại Thế Tổ Miếu (hoàng thành Huế)
Hiện nay, niên hiệu của nhà vua Hàm Nghi, tên Tôn
thất Đạm,Tôn thất Thiệp ,Tôn thất Thuyết đều có tên đường tai quận 1
Saigon, một sự tri ân xứng đáng đối với những người đã hy sinh vì sự tồn
vong của dân tộc.
2- BÌNH LUẬN:
Người ta ai cũng chỉ sống có một đời,những bậc hiền
tài,quân tử thường hiến cuộc đời mình cho những lý tuỡng cao cả, những
mục đích vì nhân dân hay nhân loại, vì quê hương hay nòi giống .Họ
không ngần ngại từ bỏ tất cả sự sung sướng của bản thân để dấn thân vào
nổi gian khổ mà mục đích chính là đem lại hanh phúc cho tất cả mọi
người. Vua Hàm Nghi là một trong những người như thế . Nếu Hàm Nghi là
một con người cùng khổ trong lớp người nghèo đói phải cầm súng gươm để
trước là giành lại miếng cơm manh áo cho bản thân và gia đình mình, sau
mới nói đến tổ quốc quê hương thì tôi sẽ không viết bài nầy cho người
anh hùng Nguyễn Phúc Ưng Lich. Đằng nầy ngài là một vi Vua tại vị, có uy
quyền, được triều đình ủng hộ, sống giàu sang sung sướng nhưng ngài đã
không để cái "tôi" của mình trên cái "tôi" của thiên hạ,để cái "tiểu
ngã" nhỏ nhoi của mình trên cái "đại ngã "lớn lao của dân tộc.
Ngài đã dấn thân vào đại cuộc, từ bỏ cả ngai vàng, một đia vị mà ai
cũng ao ước , vì nó mà lịch sử đã có biết bao người đi vào con đường tội
lỗi: cha giết con, vợ giết chồng, bạn bè phản bội giết nhau,xương
máu hận thù vì danh vọng đầy những trang lịch sử. Việc làm của Vua Hàm
Nghi thật đáng khâm phục, là một tấm gương soi sáng cho hậu thế, nó
chứng minh rằng ở bất cứ thời đại nào, dân tộc Việt Nam khi quốc phá gia
vong đều xuất hiện những anh hùng, họ ở bất cứ giai cấp nào trong
nước từ bậc quyền quý cao sang nhất cho đến lớp người nghèo khổ nhất,
chứ không phải kháng chiến chỉ dành cho giai cấp cùng khổ mà thôi.
咸宜 | |
Hoàng đế Việt Nam (chi tiết...) | |
Chân dung vua Hàm Nghi
Tài liệu tham khảo: Tổng hơp từ nhiều nguồn
HUY THANH