THAM LUẬN:
NHỮNG NGHI VẤN LỊCH SỬ CHUNG QUANH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG ( MẠC THÁI TỔ )
HUY THANH
KHẢO LƯỢC TRÍCH DẪN:
Mạc đăng Dung (Mạc Thái Tổ) là
người sáng lập ra nhà Mạc (từ năm 1527 đến năm 1592), giai đoạn lịch sử
nầy của Việt Nam người ta gọi là thời kỳ Lê-Mạc hay thời kỳ Nam-Bắc
triều. Nhà Mạc do ông dựng lên không những chỉ phải lo khôi phục sơn hà
xã tắc đã suy kiệt từ cuối thời kỳ Lê mạt, mà còn phải chống chọi lại
với phản ứng rất mãnh liệt của phần lớn các cựu thần nhà Hậu Lê với tư
tưởng trung quân của Nho giáo. Theo sách sử có viết " Đăng Dung sợ lòng người tưởng nhớ nhà Lê cũ, sinh ra biến cố, nên phàm việc đều noi theo chế độ triều Lê " do vậy các sửa đổi của ông về mọi quy chế trong nước là không
nhiều.Mạc đăng Dung đã rút kinh nghiệm từ đời nhà Hồ (Hồ quý Ly) là
không sửa đổi nhiều trong chánh sách cai trị nước vì sợ dân chúng không
ủng hộ như trước đây nhà Hồ đã làm.
Ông tên thật là Mạc Đăng Dung
(莫登庸), sinh giờ ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (1483). Ông là người
làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng).
1. 1 - NHỮNG NGHI VẤN VỀ THÂN THẾ MẠC ĐĂNG DUNG:
Cho đến nay trong sử sách và giới
nghiên cứu tồn tại ba ý kiến khác nhau về thân thế của Mạc Đăng Dung như
sau:
a) - Thứ nhất Giả
thuyết nói Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
thời Trần. Theo Toàn thư và Đại Việt thông sử, Mạc Đăng Dung là người xã
Cao Đôi (Đông Cao theo Cương mục), huyện Bình Hà (nay là thôn Long
Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), tổ tiên ông là Mạc
Đĩnh Chi, trạng nguyên triều Trần. Mạc Đĩnh Chi sinh ra Cao (Dao theo
Cương mục), Cao sinh ra Thúy (Túy theo Cương mục), Thúy sinh ra Tung,
dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà, Hải Dương rồi sinh ra Bình, Bình
lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra
Hịch, Mạc Hịch lấy con gái Đặng Xuân là Đặng Thị Hiếu
người cùng làng Cổ Trai sinh được ba con trai, con trưởng là Đăng Dung,
con thứ là Đăng Đốc (Đốc Tín), con út là Đăng Quyết. Mạc Đăng Dung là
cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi mà Mạc Đĩnh Chi lại là cháu 5 đời của trạng
nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý Nhân Tông (1086), tức là Mạc Đăng Dung là
cháu 11 đời của Mạc Hiển Tích.
b) Thứ hai: Một giả thuyét khác của nhà nghiên cứu sử Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp ký..(
sau đó nhà nghiên cứu sử Đặng Đình Lang cũng theo thuyết này) và bổ sung
thêm rằng gốc gác họ Mạc từ Cơ Chất Khiết - hậu duệ nhà Chu bên
Trung Hoa. Sau khi nhà Chu mất, Cơ Chất Khiết làm quan cho nhà Hán, được
ban họ Mạc và phong ở Trịnh Ấp. Sau này con cháu di cư xuống phía nam
rồi tới Đại Việt.
c) -Giả thuyét thứ ba là:
Mạc Đăng Dung là dòng dõi người tộc Đãn ở ven biển từ Phúc Kiến (Trung
Hoa) trở xuống, đã Việt hóa ở phương Nam. Đây là quan điểm của nhà sử
học Trần Quốc Vượng cho rằng: gia phả thực của họ Mạc còn chôn trong mộ
và họ Mạc là người Đãn man.
1.2- CHẦP NHẬN VÀ PHẢN BIỆN
Trong 3 gĩa thuyết trên, giả thuyết thứ nhất được
đông đảo các nhà nghiên cứu chấp nhận vì khoảng cách thế thứ từ Mạc Đĩnh
Chi tới Mạc Đăng Dung là hợp lý (7 đời trong 200 năm).
Còn ý kiến được đánh giá là không hợp lý khi nối kết
Mạc Đĩnh Chi và Mạc Hiển Tích: các nhà nghiên cứu cho rằng khoảng cách 5
đời trong 220 năm là không hợp lý về thế thứ. Giả thuyết của Đặng Đình
Lang đưa ra năm 1959 được xem là đi quá xa và không rõ căn cứ vào đâu?.
Riêng giáo sư Trần Quốc Vượng phản bác cả 3 ý kiến
trên mà cho rằng: Mạc Đăng Dung nhận mình là con cháu Mạc Đĩnh Chi chỉ
là mạo nhận.
2- SỰ NGHIỆP:
Mạc Đăng Dung hồi nhỏ làm nghề đánh cá, lớn lên có sức
khoẻ, đỗ lực sĩ xuất thân, được sung vào quân túc vệ của nhà Hậu Lê đời
Lê Uy Mục. Năm 1508, Đoan Khánh năm thứ 4, vua Lê Uy Mục giao cho ông
làm Thiên vũ vệ đô chỉ huy sứ ty đô chỉ huy sứ. Năm 1511, Hồng Thuận năm
thứ 3, vua Lê Tương Dực thăng ông làm Đô chỉ huy sứ tước Vũ Xuyên
bá.Triều Lê suy yếu, các tướng chia bè phái đánh lẫn nhau, bên ngoài
nông dân nổi dậy khởi nghĩa, mạnh nhất là lực lượng Trần Cảo. Cảo đánh
chiếm kinh thành Thăng Long, các tướng gác mâu thuẫn cùng đánh dẹp. Đến
khi Trần Cảo rút đi, các tướng lại chia bè phái đánh nhau. Nguyễn Hoằng
Dụ (con Nguyễn Văn Lang) đánh nhau với Trịnh Tuy. Trịnh Tuy thua chạy về
Tây Đô (Thanh Hoá). Trần Chân về phe với Trịnh Tuy đánh đuổi Hoằng Dụ,
nắm lấy quyền trong triều.
Mạc Đăng Dung thấy uy quyền của Trần Chân lớn liền
kêt thông gia với Trần Chân, cho con gái Trần Chân lấy con trai cả mình
là Mạc Đăng Doanh.Năm 1518, Lê Chiêu Tông nghe lời gièm pha, sợ uy quyền
của Trần Chân nên sai người giết Trần Chân. Thủ hạ của Chân là Nguyễn
Kính nổi loạn. Bấy giờ Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương, Chiêu Tông bèn
triệu Mạc Đăng Dung và Nguyễn Hoằng Dụ về cứu giá. Hoằng Dụ đánh bị
thua chạy về Thanh Hóa rồi chết. Đăng Dung một mình nhân cầm quân dẹp
loạn mà nắm hết quyền bính. Năm 1521, Mạc Đăng Dung chiêu hàng được
Nguyễn Kính, dẹp được Trần Cung (con Trần Cảo), quyền thế át cả Chiêu
Tông. Chiêu Tông sợ chạy ra ngoài gọi quân Cần vương. Đăng Dung bèn lập
em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê Cung Hoàng, tuyên bố phế truất
Chiêu Tông. Vua Chiêu Tông được các tướng Hà Phi Chuẩn, Đàm Thận Huy,
Lê Đình Tú về cứu, thanh thế rất lớn. Nhưng sau đó Trịnh Tuy ở Thanh Hóa
ra cần vương, các tướng bất hoà. Trịnh Tuy tranh công mang Chiêu Tông
vào Thanh Hoá, ra lệnh các đạo bãi binh, từ đó các tướng không theo
Chiêu Tông nữa. Năm 1523, Mạc Đăng Dung nhân phe Chiêu Tông yếu thế,
điều quân đánh Thanh Hoá. Năm 1524, Trịnh Tuy thua trận bỏ chạy rồi
chết. Đăng Dung được phong làm Bình chương quân quốc trọng sự thái phó
Nhân quốc công. Năm 1525, Mạc Đăng Dung bắt được vua Chiêu Tông mang về
Thăng Long và giết chết năm 1526.Nhận thấy thời cơ chưa thuận lợi cướp
ngôi nên Họ Mạc tạm thời đưa vị vua bù nhìn là Cung Hoàng lên làm vua .
Năm 1527, ông được phong làm An Hưng Vương. Các đối
thủ đều bị dẹp yên, không còn ai ngăn trở, tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng
Dung phế truất Cung Hoàng lên ngôi, lập ra nhà Mạc. Trong chiếu buộc Lê
Cung Hoàng nhường ngôi cho Mạc Đăng Dung có đoạn viết: "Từ
cuối đời Hồng Thuận gặp lúc Quốc gia nhiều nạn, Trịnh Tuy lập kẻ nghịch
lên ngôi, lòng người lìa tan, trời cũng không giúp, lúc ấy thiên hạ đã
không phải của nhà Lê vậy. Ta ( Lê Cung Hoàng ) bạc đức nối ngôi không
thể gánh nổi, mệnh trời và lòng người hướng về người có đức. Vậy nay
Thái Sư An Hưng Vương Mạc Đăng Dung là người trí đức, tư chất thông
minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp, bốn phương đều phục, bên trong
trị nước thiên hạ yên vui, công đức rất lớn lao, trời người đều qui
phục, nay theo lẽ phải nhường ngôi cho..." Xét nhửng lời chiếu dụ nầy rõ
ràng là Mạc đăng Dung đã viết và ép nhà vua ký
3- LÊN NGÔI:
Mạc đăng Dung lên làm vua từ năm 1527 đến hết năm 1529 với niên hiệu Minh Đức. Sau đó, cũng như nhà Trần, nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh (tức Mạc Thái Tông) để lui về làm Thái thượng hoàng. Do thời gian làm vua rất ngắn, không để lại nhiều dấu ấn gì ngoài một số việc như: cho đúc tiền Thông Bảo,truy tôn Mạc Đĩnh Chi là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế,xây cung điện, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, tổ chức thi tuyển chọn người có tài (thi Hội năm 1529), cũng như sửa định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt các vệ-phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty, tên quan và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, nhưng vẫn phỏng theo quan chế triều trước với bổ sung không đáng kể nên người ta biết đến ông phần nhiều như là một người cướp ngôi, mặc dù trong giai đoạn từ đời Lê Uy Mục đến đời Lê Cung Hoàng thì nhà Hậu Lê đã cực kỳ suy tàn, khởi nghĩa và nổi loạn nổi lên ở nhiều nơi, triều chính thối nát dẫn đến việc các ông vua này phải dựa vào thế lực ngày càng tăng của Mạc Đăng Dung nhằm duy trì quyền lực đã gần như không còn của mình và cuối cùng là việc phải nhường ngôi cho ông. Năm 1540, Mạc Thái Tông mất, Đăng Dung lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông.
4-QUAN HỆ VỚI NHÀ MINH TRUNG HOA:
Các sách sử thời phong kiến của Việt Nam như Toàn thư, Cương mục đều viết về hai sự kiện Mạc Đăng Dung đầu hàng ,cắt đất cho nhà Minh..Haisự kiện nầy được ghi nhận như sau:
1- Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Năm 1528, Mac đăng Dung cắt đất dâng hai châu Quy Hoá, Thuận An và hai
tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu
nhận,đồng ý không xâm lăng
2- Theo Sách Cương mục :Họ đặt vấn đề nghi ngờ về sự việc dâng đất năm 1528 mà Mạc đăng Dung đã làm do Đại Việt Sữ KýToàn thư đã ghi .Họ lưu ý rằng Đại Việt Sữ Ký Toàn thư
là do các quần thần nhà Hậu Lê viết ra nên có thể không chính xác,do
thù ghét Mạc Đăng Dung chiếm ngôi Cung Hoàng nên ghi một chiều, cố ý
buộc tội Mạc Đăng Dung bán nước.. Các sử gia ngày nay xác định rõ rằng
hai châu Quy Hoá và Thuận An từ lâu đã mất sang tay nhà Tống từ thời nhà
Lý, (do hai thủ lĩnh người dân tộc thiểu số là Nùng Trí Hội và Nùng
Trí Cao nộp cho nhà Tống) .Theo Đại Việt
Sữ Ký Toàn Thư ghi " Năm 1540 tháng 11, Mạc Đăng Dung.qua trấn Nam
Quan.,phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu
đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả
nước.,dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù
của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu.. Lại
sai mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh "
Về sự việc cắt đất dâng cho nhà Minh, quỳ lụy giặc của Mạc Đăng Dung có nhiều ý kiến khác nhau :.
a) - Một số sử gia có ý kiến cho
rằng ông làm thế là khôn khéo nhất, vì cùng một lúc không thể chia sẻ
lực lượng ra để chống lại hai thế lực: nhà Minh ở phía bắc, liên minh Lê
- Nguyễn ở phía nam. Trên thực tế, điều này (dù có hay không) đã ngăn
không cho nhà Minh đem quân vào Đại Việt và kể từ sau khi ông mất thì
cháu ông, Mạc Phúc Hải vẫn là người có toàn quyền tối cao điều hành đất
nước từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra. Bênh vực việc dâng đất
nầy ,đến thế kỷ 19, học giả Nguyễn Văn Siêu, ( tác giả sách Phương Đình Dư Địa chí ),
đã thay đổi cách nhìn nhận về vấn đề này. Sau khi khảo cứu các sách địa
lý Trung Quốc và Việt Nam, ông Nguyễn Văn Siêu đã kết luận: "Mấy động Như Tích thuộc châu Vĩnh An mới có từ niên hiệu Thuận Thiên. Nhà Mạc trả lại cho nhà Minh đất cũ đã lấn, không phải là cắt đất để đút lót vậy. Các sử gia ngày nay có quan điểm thống nhất với học gỉa Nguyễn Văn Siêu. Sữ gia Trần Gia Phụng trong bài viết: "Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử" có đoạn bình luận xác đáng về sự kiện đầu hàng, dâng đất nhà Minh của Mạc Thái Tổ như sau "Năm
1533,,Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn 10 người đi đường biển
từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu
nhà Minh xuất quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 một lần nữa Lê Trang Tông sai
Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh họ Mạc. Hành động
của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý
kiến cố vấn của Nguyễn Kim không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy
đưa đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn
làm tán lý quân vụ đem binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại,
trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại,
đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp
của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã
lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận hy sinh
danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục
của Mạc Thái Tổ,,Đại Việt trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng
trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ
Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai
cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc,
nhưng giả thuyết, chỉ là một giả thuyết không bao giờ có thể thành sự
thật được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như Hồ,Quý Ly để nước ta bị
tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng này, Mạc
Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng
Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa)
như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia
sẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn
tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông
nhuốm bệnh từ trần năm 1541." Đi xa hơn nữa, tác giả còn so sánh
hành động này của Mạc Đăng Dung với vua Lê sau ngày trung hưng về Thăng
Long: (Theo Việt sử Thông giám cương mục,) "sau khi
trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người
đem hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện
nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân
hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá
không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên
một lần nữa mới được hội kiến. Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc
Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540..."
b) -:Học giả Trần Trọng Kim (
tác giã Việt Nam Sử Lược ) thì không phê phán gì đến việc Mạc Đăng Dung
dâng đất cho nhà Minh ,ông chỉ nhận định việc Mạc Đăng Dung lên ngôi là
soán ngôi và việc làm vua mà quỳ gối dâng đất cho ngoại bang là sỉ nhục
dân tộc : "Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại
giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một
nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là
một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn
vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa
một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân
mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ."
Năm 1541, thượng hoàng Mạc Đăng Dung qua đời, thọ 59 tuổi. Trước khi mất ông có để lại di chúc không làm đàn chay cúng Phật và khuyên Mạc Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.
BÌNH LUẬN VIẾT RIÊNG CHO ENTRY:
Mỗi một triều đại, người viết sử sống
trong triều đại đó thường không dám viết lên những sự thật để phê phán
triều đại mình đang sống, do đó lịch sử củng có những uẩn khúc riệng mà
những thế hệ viết sữ sau nầy dù có muốn vô tư cũng không có tư liệu để
viết và bình luận những sự thật. Ở đây, chỉ so sánh hai cuốn Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư và Cương Mục, những quyển Sử Ký cẩm nang thời đó đã có
những mậu thuẩn khi ghi chép cùng một vấn đề. Từ đó, cũng cuộc tranh
luận, ý kiến bài bác hay ca tụng của những nhà sử học đời sau đã khiến
lịch sự đã rối lại càng rối hơn. Theo tôi,Mạc Đăng Dung có một cái sai
và một cái đúng như sau:
1-Cái sai là Mạc đăng Dung lên ngôi bằng cách giết
vua Chiêu Tông, ép buộc vua bù nhìn là Cung Hoàng ban chiếu nhường ngôi
cho mình, nếu theo đạo lý Khổng Mạnh thời đó là lọan thần tặc tử, là kẻ
soán đoạt ngôi (khác với Hồ quý Ly đời trước). Taị sao lúc đó, với
quyền bính trong tay, ông có thể huy đông quan, quân ủng hộ mình lên
ngôi bằng cách như ngày trước Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn đã từng làm để
lấy ngôi nhà Đinh từ tay Thái Hậu Dương Vâ. Nga? hay bắt chước Điện
Tiền Chỉ Huy Sứ Lý công Uẩn lấy ngai vàng từ nhà vua hoang dâm vô đạo
Lê ngọa Triều (tức Lê long Đỉnh vừa giết anh ruột là Lê long Việt để
cướp ngôi ) bằng sự ủng hộ của tướng Đào Cam Mộc và Sư Vạn Hạnh? ( *Hình như phim Lý Công Uẩn đang chiếu trên VTV vào mỗi tối khoảng 10-11
giờ khuya sau khi đã bị chỉ trích nặng nề cốt truyện, nhân vật, y
trang, đạo cụ. Theo tôi cũng nên chê luôn diễn viên nữa *).
Và gương Hồ quý Ly trước mắt còn đó, việc đảo chánh
của Hồ Quý Ly mặc dù không đổ máu nhưng cũng ít nhiều nợ máu với cựu
trào, ít nhiều tính cách hợp lý của thiên mệnh mà cũng không được nhân
dân ủng hộ. Cả hai đều có một thiên thời,địa lợi là triều đại đang trị
vì suy sụp, dân chúng lầm than, loạn khắp nơi, chỉ cần một chính
nghĩa, một lời hiệu triệu thì nhân dân sẽ theo, tự khắc nó sẽ tự bại
vong mà không cần giết vua lớn, ép buộc vua nhỏ thoái vị đê thoán đoạt
ngai vàng
Mạc đăng Dung chỉ sợ cái Ngọn là nếu cải cách nhiều
quá so với triều đại trước thì nhân dân với tinh thấn ngu trung của
Khổng Tử, Mạnh Tử sẽ không ủng hộ mà quên cái Gốc là mình đã vay nợ
máu giết vua soán đoạt ngôi, một tội tày đình thời đó mà thất bại có
thể bị tru di cửu tốc. Sự cải cách cuả Mạc Đăng Dung lại quá nửa vời,
không dứt khoát, lững lững lơ lơ, khiến nhân dân theo triều đại cũ thì
không ũng hộ, còn nhân dân theo triều đại mới thì hoài nghi lập trường
không vững chắc cuả nhà Mạc nên xa lánh dần. Xem vậy mặc dù có binh hùng
tướng mạnh, Nhà Mạc đã tự cô lập mình ,nên Mạc đăng Dung biết không
thể dùng vũ lực để giữ yên bờ cỏi nên chọn cách tiêu cực là đầu hàng ,
chịu nhục cho cá nhân và quốc thể.
2- Còn cái đúng của Mạc Đăng Dung là để tránh việc nhà
Minh kéo quân qua xăm lặng bờ cõi,nhân dân chết chóc lầm than, đặt ách
thống trị tàn bạo như trước đây Hồ Quý Ly đã lấy "trứng chọi đá "rồi
sau đó bại vong khiến đất nước bị sự đô hộ tàn bạo của nhà
Minh. Mạc đăng Dung chủ trương cầu hoà, quy hàng, chịu nhục dâng đất,
vàng bạc cho vua Minh, để may ra họ còn thưong tình nhược tiểu mà tha
cho cái mạng "kiến ruồi ". Theo tôi đây là việc làm đúng của Mặc Đăng
Dung. Khi làm chánh trị, phải biết mình, biết ta,biết lúc nào tiến, lúc
nào lùi do đó có những câu " Tránh voi chẳng xấu mặt nào "hay "Lùi một
bước để tiến ba bước". Người làm tướng phải biết tùy hoàn cảnh để lựa
kế sách hành động, kể cả việc nén nhục chờ thời như Việt Vương Câu
Tiển mỗi ngày nếm phân của vua Ngô Phù Sai, Phạm Lãi hằng ngày phải quét
chuồng heo và hố xí. Mỗi đêm đều nếm mật đắng để nhớ thời quốc phá gia
vong. Hơn nữa đất mà Mạc đăng Dung triều cống cho nhà Minh chính là đất
của nhà Minh do trước đây Nùng Trí Cao vua của bộ tộc Mường đã dâng
hiến cho phương Bắc. Trên bình diện dân tộc, việc Mạc đăng Dung tự cởi
trần, trói mình,quỳ dâng biểu trước doanh trại giặc Minh, chịu tội
thoán đoạt ngôi vua là một điều sỉ nhục cho đất nước, tổ tiên nhưng
cái quan trọng là làm như thế sẽ được gì, kết quả ra sao, mới chính là
mục đích,là cứu cánh, nó lý giải cho hành động hiện tại mà chỉ có thời
gian mới là câu trả lời chuẩn xác nhất. Cái kết quả tốt sẽ giải thích
việc làm là tốt được lưu danh sách sử, bằng ngược lại thì hậu thế sẽ ô
danh thiên cổ. Thật may mắn, là sau đó nhà Minh có vị vua không hiếu
chiến, chấp nhận lời dâng biểu cầu hoà không mang quân chinh phạt
nhà Mạc như nhà Hồ trước đây. Học thuyết Marx về chủ nghĩa duy vật biện
chứng (Dialectical Materialism ) đã nói " Cứu cánh biện minh cho
phương tiện " rất đúng trong hoàn cảnh nầy, một hoàn cảnh mà Mạc đăng
Dung ở thế chẳng đặng đừng,một biện pháp tình thế không thể nào làm khác
hơn được. Theo tôi đây là cách làm đúng của Mạc đăng Dung, sự phê phán
của nhà sữ học Trần Trong Kim ( một học giả mà tôi rất ngưỡng mộ qua
cuốn Việt Nam sữ Lược thời còn học Trung Học ) có phần khe khắt quá
chăng.? Còn những thủ đoạn của Mạc đăng Dung trong từng thời kỳ để đạt
mục đích lấy được ngôi báu chỉ là việc làm bình thuờng khi buớc vào
con đường chánh trị.Có thể nói làm chánh tri đồng nghĩa vói lọc lừa bản
thân mình , người khác, đôi khi cả một dân tộc . họ không từ bỏ thủ đoạn
nào dù xấu xa, tàn bạo , nấp dưới nhiều chiêu bài để đạt mục đích sau
cùng là chinh phục và thống trị .
Lich sử đã trả lời là Triều Đại Hồ quý Ly chỉ tồn
tại 7 năm , trong thời gian đó , chiến chinh liên tục, nhưng cái uy thế
anh hùng của một dân tộc bé nhỏ dám vì tổ quốc hy sinh chống giặc xăm
lăng phương Bắc vẳn còn lưu danh thiên cổ . Mặt khác , những cải cách
của Hồ quý Ly là một cú bức phá , một trái bom tấn đánh sập phần nào tư
tuỡng phong kiến ,mà mấy thế kỷ sau, Thiên Triều Trung Hoa mói lò
dò làm được.. Còn Triều Đại Mạc Đăng Dung tồn tại trong 65 năm hoà
bình ( dù hoà bình trong ô nhục ), thiết nghĩ đây la một bài toán khó
cho những nhà bình luân chân chính về lịch sử Việt Nam khi mang hai
Triều Đại: Hồ quý Ly và Mạc đăng Dung lên bàn cân: Công và Tội trước
nhân dân
HẾT
Tài liệu tham khảo:1- Bách Khoa Toàn Thư mở 2- Việt Nam Sử Lược ( Bùi Kỷ- Trần trọng Kim)
Mồng năm Tết năm Nhâm Thìn 2012
HUY THANH