THAM LUẬN:
HỒ QUÝ LY: MỘT NHÂN VẬT ĐẶC BIỆT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAMHUY THANH
1- NHÂN VẬT HỒ QUÝ LY TRONG LICH SỬ VIỆT NAM:
Hồ Quý Ly (tên trước khi đổi họ Hồ là Lê Quý Ly), sinh năm 1336 mất năm 1407. Trước đây ông mang họ Lê vì ông tổ
bốn đời là Hồ Liêm làn con nuôi quan tuyên huấn Lê Huấn nên đổi họ
Lê. Nhưng sau nầy khi xét lại gia phả thấy mình có thuỷ tổ là Hồ công
Mãn dòng giõi vua Thuấn bên Trung Hoa nên đổi lại là họ Hồ.
Hồ quý Ly sinh trưởng trong một gia đình dân giả, ông
thăng quan tiến chức, vào hàng vọng tộc vương gia không phải bằng khoa
cử mà là vì có hai người cô được Thái Thượng Hoàng Trần Minh Tông sủng ái. Hai bà sinh cho Minh Tông hai thái tử là thái tử Kinh tức vua Duệ
Tông và, thái tử Phủ tức vua Nghệ Tông.
Hồ quý Ly rất được lòng vua Nghệ Tôn nên ông đựợc
phong làm đến chức Khu Mật Đại sứ tướcTrung Tuyên Hầu tức là chức Thái
Sư Phụ Chính Nhà Trần. Sau nầy vua Trần Minh Tông gã con gái là công
chúa Huy Ninh nên Hồ Quý Ly làm con rể vua, lại có nhiều cơ hội thâm
nhập vào hoàng gia đời Trần.
Hồ Quý Ly có công đánh bại quân Chiêm được nhà vua ban
gươm và cờ mang chữ "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức". Chính vì
quá được nhà vua Nghệ Tông nuông chiều, trọng vọng nên ông tỏ vẻ kiêu
căng khiến quần thấn, gia tộc nhà Trần sợ ông soán ngôi nên tìm cách
lọai trừ. Sau khi vua Duệ Tông mang quân chinh phạt Chiêm Thành đánh
nhau với vua Chiêm là Chế Bồng Nga bị tử trận, Thượng Hoàng Nghệ Tông
bèn lập con của Duệ Tông lên ngôi là Trần phế Đế. Vua Phế Đế cùng các
quan, tôn thất nhà Trần bàn âm mưu ám sát Hồ qúy Ly trong một kỳ lễ Hôi
Thề truyền thống của nhà Trần hằng năm. Nhưng âm mưu bị thất bại
khiến 370 người bị vua Nghệ Tông ra lệnh xử chém cùng gia đình, con
cái họ, trong đó có bà con thân thích của nhà vua .Nhiều đại thần như
Trần Khắc Chân bị xử phải tự sát bằng tam ban triều điển (chọn cách
chết bằng gươm, bằng thuốc độc, hay thắt cổ bằng dây lụa). Vua Trần Phế
Đế bị giáng chức vua xuống làm Minh Đức Đại Vương. Sự việc xảy ra
khiến Hồ quý Ly càng thêm đề phòng, tạo thêm vây cánh, đồng thời
trấn áp phe cánh nhà Trần bằng những biện pháp " nhổ cỏ nhổ tạn gốc"
rất tàn bạo. Việc xử án quá nặng của Trần Nghệ Tông đã vô tình đào sâu
thêm thù hận giữa hoàng tộc, nhân dân và Quý Ly. Năm 1394, Thượng
Hoàng Nghệ Tông băng hà thọ 74 tuổi, người che chở, bảo bọc Hồ Quý Ly
không còn nữa nên ông không e dè dùng kế sách "tiên hạ thủ vi cường "
ra tay trước cướp ngôi nhà Trần bằng cách phế vua Thiếu Đế (vào năm
Canh Thìn 1.400 ) lập nên nhà Hồ, đặt tên nước là Đại Ngu ( có nghĩa là
thật vui,cũng có ý so sánh triều đại của mình sẽ hoàng kim an lạc như
thời đại vua Ngu ,vua Thuấn bên Tầu ) ).Hồ Quý Ly lên ngôi vua chỉ có
một năm thì nhường ngôi vua cho con là Hồ Hán Thương ,ông lên làm Thái
Thượng Hoàng nhưng vẫn điều khiển việc nước .Năm Ất Dậu 1405 quân Minh
mượn cớ phù Trần diệt Hồ ( mượn cớ có sự cầu viện của Trần thiểm Bình
,một tay lái buôn chánh trị mạo nhận là dòng dỏi Nghệ Tông ) nên sai
Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 80 vạn quân sang đánh nhà Hồ. Mới lên ngôi
chưa được 7 năm , thời gian quá ngắn nên nhà Hồ chưa thu phục được
lòng dân,một số dân vẩn còn tưởng nhớ nhà Trần. Sau nhiều trận chiến
quân nhà Hồ thua to,Hồ Quý Ly cùng Hồ hán Thương chạy đến Thanh Hoá thì
bị giặc bắt, nhà Hồ chấm dứt năm 1407.
Trong thời gian nhà Hồ trị vì , dù chỉ có bảy năm
,nhưng Hồ quý Ly đã có những cải cách rộng lớn về xã hội , quân sự
,chúng tỏ ông có tài về tổ chức ,lảnh đạo đất nước một cách cấp tiến dù
đang ở chế độ phong kiến. Có thể nói ông đả làm một cuộc Cách Mang
trước mấy thế kỹ mà các vì vua sau nầy mới lần mò làm. Ta hãy
xem ông đã cải cách những gì:
2- NHỮNG CẢI CÁCH HỒ QUÝ LY:
2.1 - TIỀN TỆ: Nhận thấy tiền
xu,đồng ngày xưa nặng nề khi mang số lượng nhiều, thương buôn có khi
phải xỏ thành xâu mang theo rất bất tiện nên ông ra lệnh dùng tiền giấy
thay cho tiền đồng gọi là tiến "Thông Bảo Hội Sao". Tuỳ theo mệnh giá
tiền mà vẽ hình như đám mậy (1 đồng), con rùa ( 2 đồng), com lân (3 đồng), rong biển (10 đồng), làn sóng( 30 đồng). Ai có tiền đồng thì
mang đổi thành tiền giấy. Xem vậy Hồ Quý Ly đã làm hai điều về chánh
sách tiền tệ: thứ nhất là đổi tiền không lưu dụng ra tiền lưu dụng
tương tự như ta đã đổi tiền hai lần trong những năm sau 1975, thứ hai là
tiền đồng lấy làm bản vị cho tiền giấy tương tự như hiện nay tiền giấy
của một nước lấy vàng làm bản vị (kim bản vị) hay một tiền có giá
tri như USD chẳng hạn làm bản vị (ngoai tệ bản vị).
2..2- THI CỬ: Về Thi cử thì cứ
năm đầu thi Hương thì năm sau thi Hội..Quy định sỉ tử vào thi phải làm
văn thể tứ trường gồm : thứ nhất làm kinh nghĩa, thứ hai làm thi phú,
thứ ba làm chiếu biểu, thứ tư làm văn sách .Đặc biệt trong kỳ thi Hương
sĩ tử phải thi môn Toán Pháp mới được vào thi Hội .Về chế độ đải ngộ
những người làm giáo dục thì những giáo chức ở các
lộ,phủ,châu đều được cấp ruộng đất .Quan Đốc Học ở các lộ, Quan Giáo
Thọ ở Phủ Châu đều được cấp ruộng từ 10, 12, 15 mẫu tùy theo địa phương
lớn hay nhỏ.
2.3--TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH, ĐỊA CHÍNH, TƯ PHÁP: Về tổ chức hành chánh thì một số lộ Lộ đổi thành Trấn, đặt thêm
nhiều chức quan như An Phủ Sứ, Thông Phán, Chủ Bạ, Lãnh Uý. Hệ cấp
quản lý thì chia ra: Lộ quản lý Phủ và Châu. Phủ và Châu quản lý
Huyện. Lộ nào cũng phải có sổ sách phân chia ruộng đất rõ ràng. Những
vụ kiện cáo đã xử ở điạ phương mỗi năm phải trình cho trung ương tại
Kinh xét duyệt để tránh oan sai cho dân (như Hệ cấp Toà Sơ Thẩm và
Phúc Thẩm bây giờ), Lại bắt các địa phương kê khai hộ tịch những
người từ 2 tuổi trở lên (tương tự như khai Hộ Khẩu như bây giờ )
2.4- VỀ MẦU SẮC PHẨM PHỤC CÁC QUAN: Về
mầu sắc thì quan nhất phẩm áo mầu tiá,nhị phẩm mầu đỏ ,tam phẩm mầu
hồng, tứ phẩm mầu sắc lục ,ngũ phẩm mầu luc, v.. v, Các nô tỳ thì mặc áo
sắc trắng. Ông cũng hạn chê số nô tỳ ở các gia đình giầu có hoàng tộc,
chủ trương đãi ngộ họ tử tế.
2.5 -VỀ ĐẠC ĐIỀN: Trước đây các nhà
giầu có,quý tộc được tự do ngăn sông , biển để lấy đất canh tác, nay thì
nay trừ vương tộc, thứ dân không được có quá 10 mẫu. Người có tội thí
được chuộc tội. bằng ruộng đất .
2.6 -VỀ HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG: Ông cho phổ biến những đơn vị đo lường mới như : cân, thước,đấu để dân chúng lấy đó làm tiêu chuẩn buôn bán, trao đổi
2.7 -VỀ QUÂN SỰ: Ý thức được nhà
Minh sẽ sang xâm lăng nên ông tích cực tổ chức quân sự lại chia quân
làm hai cánh: cánh Nam Bắc gồm 12 vệ, cánh quân Đông Nam có 8 vệ, mỗi
vệ có 8 đội, mổi đội có 18 người Đại quân có 30 đội, Trung Quân có
20 đội. Ngoài ra ở kinh thành còn có những đội quân cấm vệ bảo vệ vua và
hoàng tộc.
Về đường thủy, ông rất chú trong vì giặc xâm lăng
thường sang bằng đường sông nên ông cho xây dựng các đồn lũy bờ
sông, cắm cọc nhọn lòng sông dành khi thuỷ chiến ở ngã ba sông Bạch Hạc (
Việt Trì ). Ông giao cho con là thủy sư Hồ Nguyên Trừng đóng những
chiến thuyền to, bên trên lót ván, người chèo thì ngồi phia dưới để khi
trân chiến xảy ra trên thuyền thì tướng, quân sĩ dễ bề xoay sở. Trên bộ
thì ông cho xây thành Đa Bang kiên cố, chung quanh có hào sâu, bốn bên
có trạm gác ngày đêm.
2.8 -- VỀ VĂN HOÁ: Hồ quý Ly rất
chú trọng văn thơ, vì bản thân ông cũng là một nhà Thơ, nên ông chủ
trương dịch các tác phẩm hay về Kinh Thư, cải cách các môn, chế độ
thi cử.
3- BÌNH LUẬN:
Theo tôi ,Hồ quý Ly là người có tài, một nhà mưu lược
về cải cách xã hội, chính trị, quân sự đi trước thời cuộc . Nhưng cái
tài của ông chỉ trong lĩnh vực tham mưu chứ không thể tuốt gưom ra trận. Ông cũng có đức ,nhưng rất ít, cái ít đức của ông phát sinh từ lòng
khát vọng làm quan, làm vua, khi mình trót sinh trong một thế gia tầm
thường. Niềm khao khát đó càng có cơ hội khi ông có hai bà cô được
vua để mắt tới, vời về cung làm thứ phi sinh cho nhà vua hai người con.
Nương cơ hội đó,một người làm quan cả họ được nhờ nên Hồ Quý Ly được
xem như Hoàng Tộc.Với tài trí thông minh, ông đã chinh phục được lòng
yêu mến, sự tin dùng cuả vua Trần Nghệ Tôn (sau nầy là Thái Thượng Hoàng
) đến mù quáng. Hồ Quý Ly rất có nhiệt tâm với tiền đồ dân tộc, sau
khi lên làm vua, ông đã hối hả cải cách mọi việc ngoài mục đích xoá sạch
những gì nhà Trần để lại, còn là tạo cho dân chúng một xã hội sống dễ
thở hơn so với trước đây.
Việc hạn chế đất đai trong tay nhà giầu, hạn chế nô
tỳ trong nhà vọng tộc, buộc phải đối xử tốt với người nô lệ như một
giải phóng lờp người cùng khổ, tránh xã hội có những tầng lớp địa chủ
mới như ngày nay đã làm.Việc dùng tiền giấy thay tiền đồng là một việc
đổi mới rất độc đáo. Ai có tiền đồng đem đổi tiền giấy, Hồ Quý Ly đã
hình thành một Ngân Hàng Nhà Nước mà Trung Hoa lúc đó vẫn còn đang mê
muôi với vàng nén, bạc nén, đồng xu.Việc giáo dục ông cũng cải cách
rất nhiều bằng cách đem môn toán pháp vào kỳ thi Hội (một khoa học về
cách tính). Ông rất quan tâmđến sự nghiệp giáo dục, ban bỏng lộc cho
những người có công, nhiệm vu trong ngành giáo dục như thầy, cô dạy
học để khuyến khích họ dạy giỏi đào tạo trò hay, một điều mà cho đến
bây giờ người ta dường như bỏ quên ngành nầy.
Về quân sự, phía Bắc ông ra sức xây thành, đắp lũy,
cắm cừ cọc dưới sông đề phòng quân Minh tấn công xâm lược, phía Nam
ông cho dàn quân sát biên giới đề phòng Lâm Ấp (Chiêm Thành) sang quấy
phá .Lúc đó Chiêm Thành (Chăm) đang ở thời kỳ cực thịnh về văn
hoá, quân sự (nhất là thời vua Chăm là Chế Bồng Nga có hằng vạn chiến
thuyền, hằng nghìn thớt voi trân luôn kéo quân qua xâm lấn nước ta, có
khi vua quan ta phải tháo chạy khỏi kinh đô). May mắn là sau đó Chế Bồng
Nga bị kẻ phản bội thuốc độc chết, vị vua Chăm thay Chế Bồng Nga sau
nầy không hiếu chiến nên tạm thời hoà bình về phía Nam). Lo lắng cho
tiền đồ dân tộc trước nạn xâm lăng, Hồ Quý Ly một hôm hỏi con là Tủũy Sư
Hồ nguyên Trừng: "Ta làm thế nào cho có
100 vạn quân để đánh giặc Bắc ?" Hồ nguyên Trừng trả lời cha:" Thần
không ngại đánh mà chỉ sợ lòng dân có theo hay không mà thôi ".Phải
chăng Hồ nguyên Trừng đã nhận thức được thế nước lòng dân lúc bấy giờ?
Ta hãy phân tích tại sao nhà Hồ thất bại trong
cuộc kháng Minh mà lý do chímh là không thu phục đươc nhân tâm ( lòng
dân ). Theo tôi có những lý do sau khiến nhà Hồ không được nhân dân ủng
hộ:
1- Thứ nhất là: Theo tâm lý,
thường những người vốn khát vọng một điều gì đó khi đạt được những điều
cao hơn khát vọng thường có tình tự kiêu, nhất là kẻ có tài. Hồ quý
Ly cũng không khỏi những định luật nhân quả đó. Đây cũng là lý do thứ
nhất khi sau nầy thoán đoạt ngôi vua Hồ Quý Ly không được triếu thần,
nhân dân ủng hộ dẫn đến thất bại.
2- Thứ hai là: Khi cuộc "đảo
chính " ám sát Hồ Quý Ly bất thành, cách giãi quyết trị tội của Thương
Hoàng Trần Nghệ Tông quá tàn độc ,quá thiên lệch về phiá Hồ Quý
Ly. Thượng Hoàng lập tức phế ngay con mình đang làm vua là Trần Phế Đế
xuống làm Đại Vương, thay con khác lên ngôi. Những "loạn thần tặc tử"
gồm 370 gia đình (trong đó có những người có công với nhà Trần)
người đều bị chém đầu. Gia đình họ, con trai trên hai tuổi thì bịchôn
sống, con gái thì bị làm nô tỳ. Thậm chí một số tướng giỏi dòng họ nhà
vua cũng bị bức tử trong ngục. Lối hành xử luật pháp quá đáng nầy của
Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn đã vô tình đẩy Hồ Quý Ly vào thế thù địch một
mất một còn với hoàng tộc họ Trần, cũng có nghiã là thù địch với nhân
dân trong chế độ phong kiên nặng nghĩa tình vua tôi "quân, sư, phụ "
lúc đó. Đây là lý do thứ hai vì không được nhân dân ủng hộ nên Hồ Quý Ly
thất bại. .
3- Thứ ba là ngay thời kỳ vua Trần
Nghệ Tông còn sống,Hồ Quy Ly vớ tư cách quan Phụ chính triều đình ra
lệnh dời kinh đô từ thành Đại La (Thành Thăng Long, từ đời Lý thái Tổ
lập nên) mà chuyển vào thành Tây Đô (Thanh Hoá), sau nầy được gọi là
thành (hay truông ) nhà Hồ. Tôi nghĩ, theo ý ông chuyển kinh đô vào
Thanh Hoá để xa biên giới Trung Hoa, lỡ khi họ xâm lăng đường xa quân sĩ
mệt nhọc, ta có thời gian nghĩ cách dàn quân đối phó. Mặt khác về
phia Nam ta gần biên giới Chiêm Thành hơn để đề phòng họ sang quấy phá bất ngờ. Nhưng Hồ Quý Ly đã quên một điều là kinh đô dưới chế độ phong
kiến như trái tim của một dân tộc, nơi đó linh hồn, là vận mạng nước
non đều có hồn thiêng bảo vệ. Dời đô là thế cờ hạ sách chẳng đặng đừng
mỗi khi quốc phá gia vong, khi quân giặc đã bao vây kinh thành
Còn đây là hoà bình, việc dời đô là điềm xui xẻo trong thời phong kiến
luôn tin và cái "may" và cái "rủi ". Làm như vậy là trù quyến nước
non, nước mất nhà tan dân đen điệu đứng. Đó là lý do thứ ba mà nhà Hồ
không được nhân dân ủng hộ.
4- Thú tư là Hồ quý Ly chủ quan: ông không cho mình là" soán ngôi" mà chỉ "thế thiên hành đạo" như
các đời vua trước Đinh ,Lê,Lý.Trần. Theo ông ta là chỉ truất phế vua
không có năng lực cai tri đất nước để thay người có năng lực mà thôi. Ông cho rằng việc lên ngôi của mình là xu thế tât yếu của thời cuộc như
"tre tàn thì măng phải mọc " Đời vua nầy hết thời thì phải nhường cho
đời vua sau .Ta hãy xem lại lịch sử những cuộc đổi thay quyền lực trước
đây để xem biện luận của Hồ Quý Ly trước việc ông hạ bệ nhà Trần ra
sao :
a ) -Từ đời nhà Đinh, khởi đầu
do Đinh bộ Lĩnh sáng lập sau khi diệt lọan thập nhị sứ quân thống nhất
giang sơn, năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi tức Đinh Tiên Hoàng. Đến năm
980 nhà Đinh trao quyền lực lại cho nhà Tiền Lê (Thập đạo tướng quân
Lê Hoàn). Việc thay đổi ngai vàng cũng rất đơn giản không đổ máu.
Trước nạn ngoại xâm của nhà Tống, tướng Phạm cự Lượng trước khi xuất
binh đánh Tống đề nghị nước phải có vua chỉ huy, mà vua Đinh Tuệ lúc
ấy mới có 6 tuổi còn quá nhỏ nên dân chúng và quân sĩ đề nghị tôn Lê
Hoàn lên làm vua. Trước thế nưóc lòng dân, Thái Hậu Dương Vân Nga phải
lấy long bào ban cho Lê Hoàn, ông lên ngôi vua lấy hiệu Lê Đại Hành
Hoàng Đế. Theo Hồ Quý Ly đó không phải là "soán ngôi" mà chỉ
chuyển giao quyền lực theo định luật "tre tàn măng mọc" hợp vời đạo
trời.
b- Sang thời kỳ nhà Tiền Lê,
việc chuyển trao quyền lực cho nhà Lý thi hoàn cảnh như sau: Khi Lê Hoàn
mất, giao ngai vàng cho con cả là Lê long Việt lên làm vua thì bị em
là Lê Long Đỉnh ám sát chết. Lê long Đỉnh lên ngôi vua ăn chơi trác
táng, làm nhiều điều tàn ác, lấy thú giết người làm trò chơi, cho róc
mia trên đầu nhà sư, hoang dâm vô đạo nên sức khoẻ suy yếu. Mỗi khi lâm
triều không ngồi trên ngai vàng nổi mà phải nằm nên được gọi là vua Lê
Ngoạ Triều. Lê ngoạ Triều chêt ,con thì còn nhỏ nên tướng Đào Cam Mộc
và Sư Vạn Hạnh tôn Lý công Uẩn lên làm vua tức Lý Thái Tổ. Đây cũng
không phải là "soán ngôi" vì không có đổ máu mà theo Hồ Quy Ly là diễn
tiến của định luật "tre tàn măng mọc" theo đạo trời.
3- Sang thời kỳ chuyển giao quyền lực từ đời nhà Lý sang nhà Trần
thì rât êm ả, dưới tài trí của Thái Sư Trần Thủ Độ thì vị vua cuối
cùng đời nhà Lý là nữ vương Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho chồng
là Trần Cảnh (cháu của Trần Thủ Độ) để lập triều đại đời Trần. Đây cũng
không phải là "soán ngôi" vì không có đổ máu mà là diển tiến
của định luật "tre tàn măng mọc" hợp vời đạo trời.
Xét về cách biện luận của Hồ Quý Ly cho là mình không "soán ngôi" mà chỉ "thế thiên hành đạo " vì lên ngôi không có đổ máu
như các đời vua trước là không đúng. Ông quên mất rằng sau vụ ám sát
hụt ông ở lễ Hội Thề Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông đã giết 370
gia đình nhóm "Phản Loàn". Tuy ông không trực tiếp ra tay nhưng dân
chúng đều cho rằng chính ông là nguồn cội cuộc thảm sát nầy, nấp sau
bóng Nghệ Tông xúi bẩy Thượng Hoàng trả thù. Do đó Hồ Quý Ly tuy không
vay nợ máu trực tiếp nhưng phải trả nợ máu gian tiêp cho Hoàng Tộc và
nhân dân. Đó là điều ông chưa nghĩ tới. Khi quân
Minh sang mượn cớ Phò Trần diệt Hồ, dân chúng không theo ông chống giặc
kháng chiến khiến ông và triều đình rơi vào thế cô lập, lực lượng ít nên
thua trận ngai vàng mất mà nước cũng mất.
5- Thứ năm là những cuộc cải cách về xã hội, chánh trị, giáo dục, của Hồ Quý Ly tuy rất xuât săc nhưng đã đi quá sớm
trước thời cuộc .Trong chế độ phong kiến,về tư tưởng một vấn đề nào đó
khi đã ăn sâu vào luân lý, đạo đức hay nhân sinh quan lưu truyền từ ngàn
xưa thì viêc thay đổi phải cần có thời gian thực dụng ,lấy kết quả
thuyết phục. Nhà Hồ trị vì có 7 năm thời gian ngắn ngủi ấy không cho
nhà Hồ chứng minh được cái "thế thiên hành đạo" của mình bằng hiệu quả. Mà ngược lại ,những chánh sách như: ruộng đất, thi cử, xài tiền giấy,
thay đổi mầu phẩm phục,cải cách tổ chức lại địa phương chỉ làm cho
nhân dân ngán ngẫm, cảm gíác như bị áp đặt, mà mục đích chính là xoá
tất cả dấu vết của đời Trần.
5- KẾT LUẬN:
Khi bình luận một nhân vật nào đó,nhất là nhân vật của
lịch sử tôi thường phải đứng trên bình diện tổng thể để
nhận định,phải đặt tôi vào thế hệ đó để nhìn xã hôi qua lăng kính đương
thời. Hồ Quý Ly là một nhân vật đặc biệt ,ranh giới giữa công và tội
không rõ ràng, nói cách khác trong công có tội và trong tội có công. Hình
như lịch sử đã quá khe khắt khi viết vê ông như một loạn thần tặc tử,
có quá bất công chăng khi ngưòi ta chỉ quá thiên về cái tội mà quên cái
công .Lịch sử đã chứng minh những cải cách của Hồ Quý Ly là đúng, dù hơi
muộn vài thế kỷ sau, và lịch sử cũng cho thấy những con người đi trước
thời cuộc luôn luôn là kẻ tội đồ.
Trong lịch sử Việt Nam ,có hai " tội đồ" mang tiếng
cướp ngôi vua là Hồ quý Ly và Mạc đăng Dung (Mạc đăng Dung lên ngôi
xưng là Mạc thái Tổ năm 1527- 1529 thời kỳ nầy là thời kỳ Lê-Mạc hay
Nam BắcTriều) Nhưng Mạc Đăng Dung lại giết vua Lê để chiếm ngôi , ông
cũng có những cải cách nhưng không triệt để vì vẫn lo sợ sẽ đụng tới
cái gốc là dân chúng còn ủng hộ nhà Lê. Còn Hồ quý Ly thì không giết
vua mà chỉ truất phế, ông lại cải cách triệt để và dứt khoát. Khi giặc
Minh xâm lấn, Mạc Dăng Dung tự cởi trần, trói mình trước doanh trai
giặc để dâng biểu triều cống đất đai, xin hàng tướng giặc một cách nhục
nhã. Còn Hồ quý Ly lại đánh tới cùng mặc dù binh ít, thế cô, Ông đã phải
rút quân bảo toàn lực lượng từ châu thổ sông Hồng về Thanh Hoá, sau đó
lực bất tòng tâm ,đành thua trận bị giặc bắt cùng gia quyến gỉai về
Tầu.
Theo tôi, Hồ Quý Ly là người yêu nước, điều nầy không
có trang sách sử nào nói đến, họ đã bỏ quên mầu trắng của tờ giấy trước
một chấm đen của vết mực vấy vào. Họ chỉ chăm chú vào vết đen nhỏ nhoi
mà cho là tờ giấy bẩn trong khi đó mầu trắng sạch sẽ thì dẫy đầy chung
quanh mà họ không nhìn thấy, họ cũng quên rằng nhờ mầu trắng ta mới
biết là có mầu đen trong đó.
Để kết luận tôi xin dẫn chứng một bài Thơ yêu nước của
Hồ Quý Ly khi bị bắt sang Trung Hoa, tướng giặc hỏi tình hình phong tục
tập quán nước ta thế nào, ông trả lời bằng một bài Thơ bằng tiếng Hán
dịch ra như sau:
An Nam muốn hỏi rỏ
Xin đáp phong tục thuấn
Y quan chẳng kém Đường
Lễ Nhạc người như HánBình ngọc suối hồng hương
Đao vàng cá nhỏ vẩy
Mỗi độ mùa xuân tới
. . Mận đào nở chật vườn
( Nếu muốn hỏi về phong tục nước Nam tôi thì xin trả
lời phong tục nước chúng tôi rất thuần đạo lý, chẵng kém đời nhà Đường,
lễ nhạc chẳng thua kém nhà Hán các ông. Trên nguồn, dưới nứớc luôn có
tái nguyên dồi dào, mỗi độ muà xuân cây trái, tài lộc dẫy đầy đất nước )
Tài liệu tham khảo tiếng Việt:
1- Đại Việt Sữ Ký Toàn Thư
2- Việt Nam Sữ Lược tác giả Bùi Kỷ - Trần trọng Kim.
1- Đại Việt Sữ Ký Toàn Thư
2- Việt Nam Sữ Lược tác giả Bùi Kỷ - Trần trọng Kim.
HUY THANH