TRUYỆN CỔ TÍCH :
GÃ ĂN MÀY VÀ CHIẾC GẬY THẦN
GÃ ĂN MÀY VÀ CHIẾC GẬY THẦN
HUY THANH
Ngày xưa ở vùng rừng núi cao nguyên có một bộ tộc người thiểu số sinh sống bắng nghề trồng trọt luá ngô nương rẫy.Ngoài ra họ cũng còn đánh bẫy bắt thú rừng hay lặn xuống sông bắt cái cá, cái cua về độ nhật.Họ sống rât hiền hòa chơn chất, hàng xóm đối xử với nhau như bát nước đầy.Nhờ ơn trời mưa thuận gíó hoà nên bộ tộc chẳng những đủ cái ăn, cái mặc mà còn dư dã lương thực để trao đổi các mặt hàng khác với những bộ tộc xung quanh. Hồi đó họ chưa biết dùng tiền, nhưng họ thường đổi chác giá trị của hàng hóa được tính bằng số vỏ sò, vỏ ốc vốn là những thứ khó kiếm trên vùng đất cao nguyên nầy .Những đêm trăng sáng, gái trai bộ tộc xúm nhau giã gạo vần công, từ đó nảy sinh những tình cảm lứa đôi trong sạch, thanh khiết .Những đám cưới tập thể có suốt bốn muà để bộ tộc thêm nhiều những gia đình hạnh phúc .
Họ là những người rất tin tưởng thấn quyền, phép thuật, nên mổi khi được muà, họ thường tế lễ bằng cách mổ trâu, bò cúng bái.Sau đó cả bộ tộc ra quỳ lạy Bàn Thờ Thần Linh trong khi Thầy Mo đọc thần chú tế lễ giữa tiếng cồng chiêng vang rền cả rừng núi.Cuộc sống như thế cứ yên lành như muà khoai, muà ngô, muà luá liên tiếp nhau trãi qua bao đời .
Nhưng bỗng chiều kia có một gã ăn mày lạ mặt lân la vào buôn làng khất thực.Vốn có tấm lòng nhân hậu như cái suối, cái lá cây rừng nên người bộ tộc chẳng những không đuổi xô mà lại còn cho lắm đồ ăn, xây dựng cho người gã ăn mày cái chòi để mưa che nắng.Bọn trẻ con trong buôn mỗi tối thường ra cái chòi của gã để xem gã làm xiếc như vùi cục đá dưới bàn chân xuyên qua da thịt,nhai chiếc lá trong mồm rồi phun ra những bông hoa nhiều mầu sắc. Đặc biệt gã có chiếc gậy thần một đầu xanh một đầu đỏ.Lũ trẻ con người Thượng tò mò định cầm gậy lên xem thì gã nổi nóng quát mắng ầm ỹ rồi quỳ lạy cây gậy và đọc những câu thần chú lạ lùng. Lạy xong thì gã khóc. Bọn trẻ con hoảng hồn bỏ chạy về nhà, trong đám đó có con trai của vị tù trưởng.
Thấy con hớt ha hớt hãi chạy về, vị tù trưởng ngac nhiên hỏi thì nó nói lại những sự việc đã thấy trước mắt. Vị tù trưởng cũng bán tín bán nghi không hiểu cây gậy thần đó linh hiển như thế nào , sao gã ăn mày có những lời bùa chú lạ lùng như vậy ?.Vị tù trưởng tìm gặp Thầy Mo và nói chuyện đó cho ông nghe, Thầy Mo cũng lắc đầu chịu thua, ông ta rủ vị tù trưởng mỗi tối đên căn chòi của gã ăn mày rình rập coi nó làm cái trò gi, biết đâu nó đem một thứ thánh thần ngoại tộc nào đến để làm hại bộ tộc của mình thì sao?.Tối đó, vị Tù trưởng và Thầy mo lần mò như hai kẻ trộm núp sát bên vách căn chòi. Gã ăn mày lấy ra một miếng vải vẽ cái hình gì cong cong trên đó, rồi trải ra rồi quỳ lạy, kêu khóc, xong rồi đọc những câu thần chú lạ lùng. Đọc xong gã lấy cây gậy quơ quơ cái đầu xanh bên mảnh vải, rồi bỗng gã đứng dậy nói "Chết", tức thì, mặt trăng trên bầu trời đêm đang sáng bỗng tối sầm lại. Mặt trăng càng lúc càng tối dần rồi mất hẳn .Lát sau gã ăn mày quơ cái đầu gậy đỏ lên, niệm thần chú rồi hét lớn "Sống", lập tức, cái bóng tối che lắp bên ngoài mặt trăng bay đi nhường cho ánh sáng vầng trăng sáng vằng vặc trở lại. Bên ngoài vị tù trưởng và Thầy Mo nhìn nhau lè lưỡi gật đầu thán phục gã ăn mày chỉ dùng cây gậy thần linh mà sai khiến được thần trăng trong vũ trụ.
Khi ra về, vị tù trưởng ngồi suy nghĩ mãi, hay là đây là vị thần rừng, thần nuí nào hiện thân để giúp cho bộ tộc mình được ấm no giàu có mà mình không biết, có khi mình thất lể nên ông đã chứng tỏ thần quyền để cảnh cáo mình? .Nghĩ vậy nên hôm sau vừa tờ mờ sáng, vị tù trường sang nhà Thầy Mo cùng bàn việc cúng bái tế lễ tạ tội.Sau đó vị Tù Trưỡng tụ tập dân trong bộ tộc thật đông, họ lể mễ bưng rượu cần ngon mười choé,bò trâu mười con, lợn gà muời chục đến dâng cho gã ăn mày.Vị tù trưỡng vào sụp lay trước gã ăn mày kính cẩn thưa : " Lạy thần linh, chúng con có mắt mà không tròng, không biết thần linh hiện thân, xin ngài tha thứ tội" Nói xong Vị tù trưởng, Thầy mo cùng toàn thể dân bộ tộc quỳ lay sùm sụp, họ đoc thần chú sám hối vang cả khu rừng. Gã ăn mày bỗng đứng lên cầm cây gậy quát to " u ba la, u ba la, ta là thần đất , cái đất mầy mất, cái nhà mầy tiêu, dân mầy chết thiêu, không còn một mống, nếu mà muốn sống, thì hãy nghe ta , a à a a". Vị tù trưởng, Thầy Mo và đám dân bộ tôc run rẩy, khóc lóc lạy lục van xin thần linh cứu giúp vang trời.Gã ăn mày sau cùng đứng dậy trước đám đông , gã cầm cây gậy thần chỉ đầu đỏ vào vị tù trưởng ,thầy mo và đám đông dân chúng, gã niệm buà chú rồi nói lên một tràng tiếng lạ, sau đó nói tiếng dân tộc :" Nầy đám người kia, ta là thần linh đất , thấy chúng bây có lòng hối hận ăn năn, biết tạ lễ nên ta tha cho cái tội bất hiếu đại nghịch trước đây .Đây là cây gậy thần của ta, mầu đỏ là quyền phép của sự sống, mầu xanh là quyền phép của cái chết Người đang chết mà chỉ đầu gậy đỏ sẽ sống, người đang sống mà chỉ đầu gậy xanh thì sẽ chết.. Trong đầu đỏ có những câu buà chú linh thiêng giúp cho đời sống dân tộc các ngươi luôn thái bình .Các ngươi phải học thuộc lòng những câu bùa chú đó , phải tin tưỡng tuyệt đối mới hiệu nghiệm.Khi linh ứng, đất các ngươi sẽ tự nhiên sinh sôi nẩy nở thành những cánh đồng luá bạt ngàn mà không cần gieo cấy, không cần sạ gặt , không cần cày bưà .Cây sẽ tự sản sinh ra gạo chứ không phải là lúa nữa, đồng thời những khu rừng sẽ biến mất thay vào đó những khu vườn cây trái sum xuê, có những cây sinh trái ngọc sáng lấp lánh, các ngươi có thể hái xuống thay làm ánh đuốc ban đêm.Dân chúng có cần gì trong cuộc sống thần đất sẽ ban phát đủ cả khỏi cần làm lụng cho cực thân,các ngươi cũng không cần trao đổi bất cứ vật dụng, lương thực gì với các bộ tộc xung quanh. Bộ tộc các ngươi sẽ không có người giàu, kẻ nghèo, không cần có vỏ sò hay vỏ ốc hến làm vật trung gian trao đổi giá trị hàng hóa như hiện nay". Vị tù trưởng khép nép: " Nhưng để bù lại sự ban phát của thần linh, chúng con phải làm gì ? " Gã ăn mày quơ cây gậy có đầu đỏ : " Hãy tin vào những gì đã ghi khắc trong cây gậy nầy, tin tuyệt đối , không được hoài nghi,
Liên tiếp thời gian sau đó, gã ăn mày rủ thêm nhiều đám ăn mày lạ mặt khác đến cưa cây, xẻ gỗ, phá hết ruộng vườn, rẫy nương của bộ tộc để cải tạo đất.Thình thoảng vị Tù Trưỡng thấy mắt đám ăn mày sáng rực lên khi tìm từ trong khối đất vữa vừa được sàng lọc, những cục đá trong vắt như thuỷ tinh,chiếu sáng lấp lánh đủ mầu sắc dưới ánh mặt trời, những hạt bụi mầu vàng óng ánh mà chúng nâng niu như báu vật. Đám ăn mày ngày đêm đào xới, xục xạo đất khắp nơi, chẳng mấy lâu sau một vùng đất to rộng của bộ tộc đã tan hoang không còn rừng cây hay đám cỏ. Mưa bão lũ lụt từ đó đến lu bù, ngập đất , ngập rừng , thú hoang chết vô số kể . Vị tù trưỡng rất đau lòng vì bộ tộc đã bắt đầu không có lương thực đề ăn, thiếu nước để uống, nhưng ông rất tin vào buà phép cây gậy thần của đám ăn mày nên khuyên bộ tộc hãy chờ đợi một ngày huy hoàng sẽ tới, cả bộ tộc sẽ sống trong một thiên đàn.
Một đêm tối không ngũ được, vị tù trưởng đi ngang qua căn chòi của gã ăn mày, qua ánh lữa, ông thấy đám ăn mày chụm đầu nói nhỏ cái gi mà ông không nghe rõ, ông chỉ còn nghe được hai tiếng sắp "nguyệt thực" mà thôi.Liên tiếp thời gian sau đó, gã ăn mày rủ thêm nhiều đám ăn mày lạ mặt khác đến cưa cây, xẻ gỗ, phá hết ruộng vườn, rẫy nương của bộ tộc để cải tạo đất.Thình thoảng vị Tù Trưỡng thấy mắt đám ăn mày sáng rực lên khi tìm từ trong khối đất vữa vừa được sàng lọc, những cục đá trong vắt như thuỷ tinh,chiếu sáng lấp lánh đủ mầu sắc dưới ánh mặt trời, những hạt bụi mầu vàng óng ánh mà chúng nâng niu như báu vật. Đám ăn mày ngày đêm đào xới, xục xạo đất khắp nơi, chẳng mấy lâu sau một vùng đất to rộng của bộ tộc đã tan hoang không còn rừng cây hay đám cỏ. Mưa bão lũ lụt từ đó đến lu bù, ngập đất , ngập rừng , thú hoang chết vô số kể . Vị tù trưỡng rất đau lòng vì bộ tộc đã bắt đầu không có lương thực đề ăn, thiếu nước để uống, nhưng ông rất tin vào buà phép cây gậy thần của đám ăn mày nên khuyên bộ tộc hãy chờ đợi một ngày huy hoàng sẽ tới, cả bộ tộc sẽ sống trong một thiên đàn.
Tối hôm sau, gã ăn mày bảo vị tù trưởng tập hơp dân bộ tộc để nghe lời truyền phán của thấn linh về tương lai của bộ tộc họ. Trong ánh sáng vằng vặc của con trăng thượng tuần, gã ăn mày nhìn đám người đang quỳ mọp dưới chân, gã đọc lên những lời thần chú dị kỳ rồi chuyển sang tiếng dân tộc: "Hỡi Tù Trưởng và toàn thể dân bộ tộc hãy nghe đây, sau thời gian cư ngụ vùng đất nầy ta thấy các người đã thành tâm cầu phục Thần Đất ta, hôm nay ta phải từ giã các người để đi ban phát thần phúc cho nơi khác. Trước khi đi, ta tặng lại bộ tộc các ngươi cây gậy thần nầy, đây là ân huệ đặc biệt của ta , khi các ngươi cầu gì hãy tụ tập hết bộ tộc trước cửa nhà rong, quỳ xuống đọc những lời thần ta ban phát ghi trong đầu gậy nầy, các ngươi sẽ toại nguyện. Để các ngươi thấy ta đã hiển linh, ta sẽ đuổi mặt trăng đi nơi khác, các ngươi sẽ sống trong bóng tối một thời gian ngắn, hãy thành tâm cầu nguyện, tức khắc ta sẽ gọi mặt trăng về cho bộ tộc các ngươi "
Gã ăn mày nói xong cầm cây gậy thần chỉ đầu xanh lên mặt trăng niệm thần chú , trăng đang sáng bỗng từ từ tối sầm lại biến mất trong đêm tối. Trong bóng đêm, vị Tù Trưởng,Thầy Mo và cả dân bộ tộc quỳ lạy đọc những câu bùa chú mà đám ăn mày đã dạy cho dù chính họ cũng không hiểu nghĩa là gì. Lát sau gã ăn mày lại chỉ đầu gậy đỏ lên bầu trời đang tối đen như mực,mầu nhiệm thay trời từ từ sáng lại, trăng bắt đầu ló dạng, rồi sau đó lớn dần lên, mặt trăng lại tỏa những ánh sáng vằng vặc xuống buôn làng như trước. Cả bộ tộc ngay trong đêm tối giết trâu mổ bò cúng bái đa tạ Thần đất đã hiển linh , đã cho họ gậy thần, họ đem tất cả rượu cần trong kho ra uống mừng, nhậu nhẹt li bì và ngủ đến trưa hôm sau
Vị tù trưởng là người tỉnh rượu trước hết khi mặt trời vừa đứng bóng, cái nóng của vùng đất khô cằn không có một bóng cây như thiêu đốt mãnh khố là vật duy nhất ông còn mang trên người. Ông thấy khát nước, đến dòng suối thì nước đã cạn dòng, con suối bốc lên một mùi tanh khen khét làm ông muốn ói. Lũ ăn mày đã đi xa từ lúc nào , mảnh đất trù phú đầy bóng mát của ngàn hoa cây trái,của những cánh đồng luá mênh mông bốn muà trước đây không còn nữa, thay vào đó mặt đất còn lại những vũng nước khô, những hố trũng, những hầm hố loang lở bạt ngàn hậu quả của bao năm bị đám ăn mày đào xới. Dân bộ tộc cũng từ từ tỉnh lại dần, họ tụ tập chung quanh người lãnh đạo, họ bắt đầu đói và khát., đàn ông, đàn bà, người lớn. trẻ con đều cần nước, cần lương thực. Vẫn tin vào cây gậy thần quyền nhiều buà phép mà gã ăn mày hiện thân của thần đất ban cho họ, vị tù trưỡng ra lệnh dân bộ tộc quỳ xuống khấn vái thần đất. Họ hy vọng mãnh đất khô cằn nầy sẽ hóa thành những cánh đồng luá bạt ngàn, những vườn trái cây sum xuê đầy trái ngọc sáng lấp lánh, họ cần gì thì Thần Đất sẽ ban phát cho như gã ăn mày nói. Không biết họ cầu nguyện bao lâu, hết ngày nầy qua ngày khác, tháng nầy qua tháng khác, năm nầy qua năm khác.Họ lần lượt gục chết dần vì cái đói, cái khát, cái tuyệt vọng .Cây gậy thần vẫn chỉ lên trời một cách vô vọng vì không thấy bóng thiên đường ở đâu như lũ ăn mày nói
Lần lượt dân bộ tộc đều chết hết, vị tù trưởng lấy cây gâỵ chỉ đầu đỏ vào đám xác chết đang là thây ma mong họ sống lại nhưng không một xác nào hồi sinh. Bây giờ, ông mới hiểu rằng lời nói của đám ăn mày chỉ là những lời lừa bịp, không tưởng.Vị tù trưởng là người chết sau cùng, ông gục xuống, tay vẫn còn ôm cây gậy thần hướng đầu đỏ chỉ về hướng mặt trời, một hướng đi mà cả ngàn đời bộ tộc ông không bao giờ tới.
HUY THANH